Tên di sản : Cụm DT thắng cảnh Cổ Định, Đền thờ Trần Khát Chân, Đền Nưa, Đền Tào Sơn và thắng cảnh Am Tiên

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di sản : Di sản văn hóa vật thể

Sô quyết định : 59/VHQĐ

Giới thiệu

Theo đường tỉnh lộ số 101 tù thị xã Thanh Hóa đến quán Giắt khoảng 20km và từ ngã tư Quán Giắt rẽ tay trái theo đường 15b đi về phía Nam khoảng 10km là đến vùng đất Cổ Định lịch sử. Dãy núi Nưa trùng trùng, điệp điệp, cao ngất như án ngữ trước tấm mắt. Dưới hang núi Nưa là ngôi đền thờ Lệ Hải bà Vương (tức Bà Triệu). Đền quay về hướng Đông – nhưng không còn nguyên vẹn như xưa. Bởi lẽ, những năm chiến tranh phá hoại của Mỹ đối với miền Bắc, khu vực này là một trong những trọng điểm đánh bom của giặc toàn bộ khu đền gồm 5 gian tiền đường, 3 gian hậu cung hợp thành theo kiểu chữ “Đinh” bị sụp đổ. Duy nhất chỉ còn lại cửa Nghinh Môn 3 tầng vẫn đứng vững. Song, trên mình nó còn mang đầy thương tích bởi bom đạn Mỹ gây nên. Mấy năm gần đây, địa phương đã xây dựng tôn tạo lại ngôi đền. Trên cơ sở nền móng cũ. Đến nay toàn bộ khu đến khá khang trang, thường xuyên đón nhiều đoàn du khách đến chiêm ngưỡng, tỏ lòng tôn kính đối với vị anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh. Ngoài ngôi đền thờ Bà Triệu mới được phục hồi, tu bổ lại, điều đáng đề cập đến ở đây là kiến trúc bết: kiến trúc Nghinh môn 3 tàng. Theo các cụ cao niên ở địa phương cho tu bổ cuối cùng vào năm 1926 khi vua Bảo Đại ra thăm Thanh Hóa, đã đến đây vãn cảnh và cho nghệ nhân ở Huế ra tu bổ lại toàn bộ các phần mái, đầu dao để có kiểu dáng kiến trúc như hiện nay.

Mặc dù về niên đại cảu kiến trúc này được tu bổ cách xa nay chưa đầy một thế kỉ. Song với sự tồn tại hiện diện của nó, là những bằng chứng cụ thể và sự cổ kính của chiến khu đền Nưa sơn này.

Từ đến Nưa Sơn, men theo sườn núi lên đỉnh núi Nưa có độ cao 650m. Ở đây, với diện tích rộng lớn nhưng khá bằng phẳng được gọi là Am Tiên.

Nói về Am Tiên, trước hết phải khẳng định nó là một khu thắng cảnh đầy sức quyến rũ như một tiên cảnh. Ở đây, cỏ cây hoa lá bốn mùa xanh tốt, hoa nở trắng ngút ngàn ở đỉnh cao nhất của ngàn Nưa, mà khe suối ở đây không bao giờ cạn nước. Chỗ này có hồ nước lớn, gọi là Ao hóp. Chỗ kia nước tí tách chảy cùng thời gian tạo nên những vũng nước, người đời đặt tên cho nó là giếng Tiên…cảnh thâm sâu của rừng núi, hòa nhập với không gian bao la của hoa cỏ, núi rừng tạo nên một cảm giác khác biệt cuộc sống đời thường ở trần si.

Điều đáng chú ý hơn cả là khu đền Am Tiên này, còn có tên gọi là Động Cắm Cờ. Tương truyền nơi đây bà Triệu dựng cờ khởi nghĩa. Ao hóp, giếng Tiên là nguồn nước của các nghĩa sĩ. Chung quanh khu vực này có nhiều gọn đối với cái tên như: Đông chợ Bụa – nơi trao đổi vật phẳng bằng Yên ngựa trạm quan sát là đồn tiền tiêu của nghĩa quân. Từ bao đời nay, ở đây có đền thờ Bà Triệu, có đền thờ Tu Viên và chùa. Theo dấu tích của nền móng cũ, nhân dân địa phương tạo dựng lại quy mô cấu trúc của từng phần kiến trúc làm nơi thờ phụng. Song mức độ cũng chỉ bằng tranh tre, nứa lá. Bởi vì khó có thể vận chuyển nguyên vật liệu bằng gạch đá lên núi với độ cao hơn 600m. Và ngôi đền thờ Lệ Hải Bà Vương cũng đành bằng lòng với bệ thờ lộ thiên trong một thời gian khá dài và đến nay cũng với chỉ làm được 3 gian nhà bằng gỗ, lợp tranh.

Những dấu tích cũ còn lại ở khu vực Am Tiên chủ yếu là những hình cánh hoa sen, kích thước 0,45 x 0,45, và may mắn còn lại con rùa bằng đá. Mang đậm nét của phong cách nghệ thuật thời Lý – Trần. Đó là những bằng cứ để góp phần tìm hiểu nghiên cứu và nhất là việc bổ sung tư liệu xác định về niên đại của khu di tích và thắng cảnh Am Tiên.

Ngoạn cảnh Am Tiên, trở lại làng Giáp của xã Cổ Định một làng nằm cách chân núi Nưa không đầy 1km theo đường chim bay. Ở đây, có đền thờ Trần Khát Chân và đền quan Tào Sơn hầu.

Đền thờ Trần Khát Chân (hay còn gọi Nghè Giáp), dựng theo hướng Nam, phía trước đền là cánh đồng chạy dài đến sát chân núi Nưa. Phía sau đền là làng Giáp. Quy mô cấu trúc đền Trần Khát Chân khá lớn, bao gồm: Nghinh môn Bái đường – Tả vu – Hữu vu và khu đền thờ chính, chung quanh có tường xây bao bọc.

Đền thờ chính gồm có: nhà Tiền đường 5 gian (dài 13,30 m – rộng 6,95 m) – nhà Trung đường (hay còn gọi là nhà cầu) dài 2,70 m – rộng 5,3m, và sau cùng là chính tẩm 3 gian – dài 9,30m – rộng 7m10. Ba kiến trúc này được bố cục theo kiểu chữ Công.

Về cấu trúc vì kèo bao gồm: cột cái, cột quân, bộ khung giá chiêng theo lối kẻ chuyền. Các vì kèo liên kết với nhau bằng đường xà thượng – xà hạ. Tất cả hợp thành một bộ khung vững chắc. Chu vi cột cái 1,37m, cột quân là 1,30 m, chung quanh liệt ván.

Phía trước hai bên khu đền chính là 2 dãy nhà Tả Vua và Hữu vu. Mỗi dãy 7 gian, nhưng đều bị phá.

Ngoài khu đền chính còn nguyên vẹn, phải kể đến cửa Nghinh môn – một kiến trúc chồng diêm ba tầng. Khác với Nghinh môn đền Nưa, ở đây chỉ có một cửa. Song nó là một trong những kiến trúc khá độc đáo ở vùng đất Cổ Định và là một công trình kiến trúc còn giữ được khá nguyên vẹn cũng như Nghinh môn đền Nưa. Nghinh môn đền thờ Trần Khát Chân được tu sửa lần cuối cùng vào năm Bảo Đại năm thứ 2 (1927) do ông Cả Bờm (thợ nề) và ông Cố Nai (thợ mộc) là những nghệ nhân của nhà Nguyễn ở kinh thành Huế tu sửa. Do vậy một số chi tiết mang đậm nét phong cách nghệ thuật kiến trúc của kinh đô Huế.

Tóm lại: Quần thể kiến trúc ở đền thờ Thượng tướng quân Trần Khát Chân có giá trị nghiên cứu về nghệ thuật kiến trúc thế kỉ 17. Nó còn là một trong số công trình kiến trúc tôn giáo còn bảo tồn được khá nguyên vẹn và có quy mô khá lớn so với một số ngôi đền khác ở Thanh Hóa.

Cách đền thờ Trần Khát Chân khoảng nửa cây số về phía Bắc là đền thờ quan Tào Sơn. Xong quy mô của đền Tào Sơn không lớn lắm. Bao gồm nhà tiền đường 3 gian và 2 gian chính tẩm bố cục theo kiểu chữ “Đinh”. Đền dựng theo hướng Nam, phía trước là sông Nhơm. Phía sau đền là khu dân cư hiện nay. Đối với Quan Tào Sơn hầu, không chỉ có làng Giáp phụng thờ, mà tất cả 11 làng của xã Cổ Định đền thờ và ông được coi là vị thần hoàng của làng. Nhưng đến nay các đền thờ của các làng đều bị phá, duy nhất chỉ còn lại ngôi đền thờ Tào Sơn ở làng Giáp.

Về nghệ thuật kiến trúc đền Tào Sơn không có gì đặc biệt. Vẫn là lối kiến trúc cổ của ngôi đền ở Việt Nam, có nghĩa là thành phần cấu trúc vì kèo gồm có cả cột cái – cột quân, cột hiên, và bộ khung giá chiêng…Đề tài trang trí trong ngôi đền là Long – Ly – Quy – Phượng và hoa lá cách điệu.

Giá trị về kiến trúc nghệ thuật không lớn. Song về ý nghĩa và giá trị lịch sử, đền Tào Sơn là một di tích về một danh tướng được ban tặng tước hầu (một tướng đứng hàng thứ hai trong ngũ tước) có công lao đối với nước với dân.

Làng Giáp (xã Cổ Định xưa), là quê hương xứ sở - nơi sinh thành và hun đúc nên tài năng của người anh hùng ấy. Và chính ông Tào Sơn hầu Lê Mạnh đã làm rạng rỡ thêm trang sử truyền thống của mảnh đất Cổ Định ngàn năm văn hiến – của Ngàn Nưa vang vọng mãi tiếng Cồng và rực rỡ chiến công.

Tóm lại: Cụm di tích – thắng cảnh Cổ Định bao gồm: Đền Bà Triệu (hay đền Nưa), đền thờ Trần Khát Chân, đền Tào Sơn hầu và thắng cảnh Am Tiêm chẳng những có giá trị về mặt kiến trúc nghệ thuật về thắng cảnh mà lớn hơn cả là nó chứa đựng nội dung lịch sử trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc. Mỗi tên làng, tên núi, tên sông ở đây đều gắn với tên tuổi người anh hùng hào kiệt Triệu Thị Trinh, tướng quân Trần Khát Chân, với sự tích thần kì về vị Tu Nưa và danh tướng Tào Sơn hầu…Những di tích nêu trên còn lại đến nay là bằng chứng hùng hồn chứng minh cho truyền thống lịch sử vẻ vang ấy. Đó là những di sản văn hóa cực kì quý giá cần được gìn giữ bảo tồn và phát huy tác dụng.

Những hiện vật có giá trị:

Rùa chân tảng thời Lý Trần.

Kiệu bát công

Long ngai, bài vị của các vị thần được thờ

Bát hương các loại

3 Pho tượng mẫu bằng đồng

Ngoài ra còn rất nhiều đồ thờ tự khác.

Loại di tích:

Cụm di tích thắng cảnh Cổ Định thuộc loại di tích kiến trúc tôn giáo kết hợp với nhiều thắng cảnh đồng thời còn là những địa điểm lịch sử tiêu biểu.

Hình ảnh Cụm DT thắng cảnh Cổ Định, Đền thờ Trần Khát Chân, Đền Nưa, Đền Tào Sơn và thắng cảnh Am Tiên

Cụm DT thắng cảnh Cổ Định, Đền thờ Trần Khát Chân, Đền Nưa, Đền Tào Sơn và thắng cảnh Am Tiên

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật