Tên di sản : Cụm DT Đền Khánh Trạch – Chùa Thiên Vương
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 2519/QĐ-UBND
Giới thiệu
Về Đền Khánh Trạch:
Về lịch sử ngôi đền: Đến nay mặc dù chưa tìm thấy tài liệu nào ghi chép một cách cụ thể và chính xác thời gian xây dựng.
Tương truyền rằng, vào đời Lê, trong thôn có người họ Đặng, tuy nhà giàu có nhưng muốn con trai nên thân hành đi cầu đảo khắp nơi trong đó có đến Đền Sòng, phố Cát để cầu đảo. Sau khi cầu đảo ở đền Sòng được một thời gian thì sinh được người con trai đặt tên là Khiêm. Đặng Minh Khiêm thi đỗ hai khóa tú tài nên được gọi là ông Kép Khánh, từ đó gia đình làm ăn ngày một phát đạt, thịnh vượng, cửa nhà yên vui. Vì vậy, ông đã cùng ông họ Lý (Lý trưởng) trong làng ra Diệu Hiệu và bát hương về lập đền thờ Liễu Hạnh công chúa.
Đền xưa ngự trên một khu đất cao và bằng phẳng, địa hình có thể “Thanh Long Bí Châu” tức khu đất ngự trên trán rồng với diện tích khoảng 2000m2, gồm có ba gian hai chái. Gần đền còn có một ngôi chùa, xung quanh là bờ tre nên nhân dân còn gọi khu đất này là đất Mã Chùa.
Tương truyền, ở đền xưa có pho tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh bằng đồng đen nặng khoảng 40kg, tượng đặt ở Hậu cung; 1 quả chuông đồng đúc thời Lê nặng khoảng 70km; gian giữa là nơi đặt ban thờ Công đồng gồm có sập thờ, hương án... đều sơn son thếp vàng; hai bên có bộ thất sự. Tương truyền, ở đền xưa có đôi câu câu đối khảm bằng gỗ xà cừ...
Trải qua thời gian và nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, ngôi đền cũ đến nay không còn nữa do bị phá hủy vào những năm 80 của thế kỷ trước.
Đến nay, mặc dù chưa tìm thấy nguồn tài liệu nào ghi lại một cách chính xác về thời gian xây dựng ngôi đền, nhưng căn cứ vào tấm bia Thánh đức quang minh còn được lưu giữ tại đền ngày nay, các bức hoành phi, câu đối và những hiện vật cho chúng ta biết ngôi đền đã được xây dựng từ rất lâu đời. Đến khoảng năm 20 của thế kỷ trước, đền lại được xây dựng lại nhưng vào những năm 80 lại tiếp tục bị phá hủy.
Năm 2005, bằng tấm lòng hảo tâm của nhân dân thôn Thanh Khánh nói riêng, nhân dân xã Bình Minh, huyện Tĩnh Gia nói chung cũng như con cháu thập phương gần xa, ngôi đền đã được tôn tạo lại ngay trên nền đất cũ gồm có các công trình chính sau:
Cổng đền: được xây bằng gạch theo kiểu tam quan với hai trụ biểu ở giữa và hai lối đi hai bên. Lối đi ở giữa lớn nhất có chiều rộng là 3,4m; hai lối đi hai bên đều rộng 2,2m.
Sân đền: được lát bằng gạch bát vuông có kích cỡ 20 x 20cm, với chiều dài là 9,4m; rộng 6,5m.
Phía trước sân là nơi đặt bát hương thờ chung, hai bên đặt hai tấm bia. Tiếp đến là bức bình phong, phía trước bức bình phong là tượng Quan Âm Bồ Tát bằng thạch cao trắng đang đứng trên một bệ đá giữa sân thiên tỉnh, tay trái cầm bình nước Cam Lộ, tay phải trong tư thế bắt quyết. Hai bên bức bình phong là lầu cô và lầu cậu.
Đền chính:
Về quy mô, cấu trúc: Đền Khánh Trạch hiện tọa lạc trên một khu đất cao ráo, rộng rãi và thoáng mát nhìn về hướng Nam, có diện tích là 1330m2. Phía bắc giáp đường đi và cánh đồng; phía nam và phía tây giáp khu vực dân cư; phía đông giáp đường liên thôn.
Đền được cấu trúc theo kiểu hình chữ Tam gồm có Tiền đường, Trung đường và Hậu cung.
Tiền đường: là một ngôi nhà gồm ba gian có chiều dài là 9,4m; rộng 6,35m với tổng diện tích là 59,690m2. Kết cấu kiến trúc của nhà Tiền đường được làm theo kiểu bê tông giả gỗ mô phỏng theo kiểu kiến trúc gỗ truyền thống của người Việt.
Bài trí ở Tiền đường gồm ba gian thờ.
Gian giữa gồm có ba lớp thờ.
Lớp trên cùng có chiều dài là 2,5m; rộng 0,65m; cao 1m là nơi đặt tượng thờ Ngũ vị Tiên ông ngồi trên bệ thờ bằng gỗ, mình mặc áo choàng, đầu đội mũ cánh chuồn, tay trái đặt trên gối, tay phải đặt nghiêng giơ lên phía trước theo kiểu bắt quyết, ngón trỏ chỉ lên trời. Đệ nhất là quan Thượng Thiên mặc áo màu đỏ, đệ nhị là quan giám sát quyền cai quản Thượng ngàn mặc áo màu xanh. Đệ tam Thoải Phủ cai quản bản mệnh Thanh ồng mặc áo màu trắng. Đệ tứ là quan Khâm sai quyền cai quản tứ phủ mặc áo màu vàng và Đệ ngũ là quan Tuần Tranh quyền cai quản âm binh nhà trời mặc áo tím. Tất cả các tượng đều có kích cỡ bằng nhau.
Lớp thứ hai cao 90cm, là nơi đặt ba pho tượng cậu trong tư thế ngồi. Tượng ở giữa và tượng bên hữu tay phải đặt trên gối, tay trái đặt nghiêng trên gối như kiểu đang bắt quyết. Tượng bên tả tay phải đặt nghiêng trên gối như kiểu đang bắt quyết, tay trái đặt trên gối.
Lớp dưới cùng cao 75cm, là nơi đặt hương án gồm có 1 bát hương đồng trang trí đôi rồng chầu nhật, 2 bát hương sứ, 2 chân nến đồng, 2 hạc đồng đang ngậm cánh sen, 2 đài nước, 2 lọ cắm hoa. Hai bên còn có đôi câu đối bằng gỗ ghi:
“Bất tử tinh thần vạn cổ anh linh lưu Khánh Trạch
Giáng sinh, hiển thánh, quân phương chiêm bái, chuyển tư thành”.
Tức:
“Tinh thần chẳng mất, muôn thuở anh linh lưu lại đất Khánh Trạch
Giáng sinh, hiển Thánh khắp nơi cầu bái nguyện lòng thành”.
Ngoài ra, phía trên là bức Đại tự ghi: “Thánh Cung vạn tuế”. Đây là bức Đại tự vốn xưa là của đền Khánh Trạch, do trước đây được lưu giữ ở đền thờ Đào Duy Từ, nay mới được trả về. Bên ngoài cửa nhà Tiền đường còn có 1 bức đại tự ghi: “Hàm hoàng quang đại”.
Gian tả là nơi đặt tượng thờ Đức Ông ngồi trên bệ thờ bằng gỗ, phía trước là một hương án gồm một bát hương đồng trang trí đôi rồng chầu mặt trời, 1 đôi hạc gỗ và một mâm bồng gỗ.
Gian bên hữu là nơi thờ Đức Phật A Di đà trong tư thế ngồi tọa thiền trên đài sen. Tóc xoáy ốc, nhục khấu. Khuôn mặt đôn hậu, mắt nhìn xuống như đang suy tư, sống mũi cao, thẳng, miệng hơi mỉm cười, tai dài. Tượng mặc áo cà sa với những nếp gấp rất đều, tạo ra các làn sóng mỏng trải ra cân đối hai bên thân mình, hai bên cánh tay và hai bên chân. Hai chân ngồi xếp bằng, hai bàn tay đặt giữa lòng đùi, bàn tay trái đặt lên giữa bàn tay phải, hai đầu ngón tay cái giao nhau. Phía dưới còn có tượng phật Quan Âm tay trái cầm bình nước Cam Lộ, tay phải đưa lên phía trước đang trong tư thế bắt quyết và tượng Đại thế chí là hai vị thị giả giúp việc cứu tế cho Phật A Di Đà. Phía trước ban thờ là một hương án bằng gỗ gồm 1 bát hương đồng trang trí đôi rồng ngậm cuốn thư chầu mặt trời, 1 đôi chân nến đồng và 1 l��� cắm hoa.
Hai bên phía trước nhà Tiền đường còn có hai miếu thờ thần Hộ pháp dài 85cm, rộng 1,05m.
Tượng phía tả tay trái cầm đại đao, tay phải chống nạnh, mắt nhìn thẳng trông rất dữ tợn. Phía dưới đặt một bát hương sứ.
Tượng phía hữu tay trái chống nạnh, tay phải cầm đại đao, dáng vẻ giống như tượng bên tả.
Trung đường: là một ngôi nhà 1 gian có chiều dài là 5m; rộng 4,5m với tổng diện tích là 22,5m2. Cũng như nhà Tiền đường, Trung đường được làm theo kiểu bê tông giả gỗ mô phỏng theo kiểu kiến trúc gỗ truyền thống của người Việt.
Bài trí nhà Trung đường gồm có ba lớp thờ.
Lớp trên cùng cao 1,1m là nơi thờ tam tòa Thánh Mẫu ngôi trên bệ thờ gỗ, hai bên còn có tượng hai tiên đồng đang bê một hộp gỗ. Tất cả các pho tượng đều trong tư thế ngồi trên bệ thờ, đầu đội mũ kết tựa những bông hoa, dáng dấp các pho tượng đều được tạc gần giống nhau cả về kích cỡ, tư thế ngồi lẫn thần thái. Ngồi chính giữa là tượng Mẫu Thiên, mình mặc áo choàng đỏ. Bên phải là mẫu Thượng Ngàn, mình mặc áo choàng xanh, cổ đeo chuỗi hạt màu xanh. Bên trái là tượng Mẫu Thoải, mình mặc áo choàng trắng, cổ đeo chuỗi hạt màu trắng. Các tượng mẫu ở đây áo đều được trang trí hình hoa lá cách điệu ở các viền, điều này nói lên nét đẹp đặc trưng của người phụ nữ.
Lớp thứ hai cao 1m, là nơi đặt tượng Tứ vị Thánh Nương ngồi trên bệ thờ gỗ, tay trái đặt trên gối, tay phải đặt nghiêng theo kiểu bắt quyết.
Lớp dưới cùng cao 75cm, là nơi đặt hương án gồm 2 bát hương sứ, 2 lọ hoa bằng sứ, 1 mâm bồng gỗ, 1 đôi chân nến đồng và 1 đôi hạc đồng.
Hậu cung: là một ngôi nhà gồm 1 gian có chiều dài là 3,25m; rộng 2,75m. Hậu cung được xây bằng gạch, mái lợp ngói tây. Tất cả rui, mè, đòn tay đều được làm bằng luồng.
Bài trí nhà Hậu cung gồm có 2 lớp thờ.
Lớp trên cùng cao 1,1m, là nơi đặt tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh ngồi trong ngai thờ gỗ được sơn son thếp vàng, mình mặc áo choàng trắng, đầu đội mũ, tay trái đặt lên gối, tay phải cầm lệnh bài theo kiểu bắt quyết.
Bệ thờ phía dưới cao 1,1m, là nơi đặt tượng 2 cô hầu đứng trên bệ gỗ, tay đang cầm quạt. Ngoài ra còn có 1 bát hương sứ, 1 mâm bồng đồng, 1 lư đồng và 1 đôi chân nến đồng.
Đặc biệt, đến hiện còn lưu giữ được 3 tấm bia.
Bia thứ nhất ghi lại những người có công và cung tiến để xây dựng đền. Bia viết chữ hai mặt có chiều cao cả đế là 1,5m; rộng 75cm; dày 17cm; trán bia cao 20cm; để bia cao 10cm, rộng 1m, dài 30cm; thân bia cao 1,1m.
Hai mặt của trán bia trang trí hình mặt trời ở giữa, xung quanh là hình vân mây.
Bia thứ 2 ghi niên hiệu Tự Đức thứ 36 (1883), mặt 1 có tiêu đề là “Đốc phúc khánh tư văn” tức “Hội tư văn vun đắp phúc khánh” ghi lại việc cúng tiến tu tạo đồ tế khí; mặt số 2 ghi lại việc tu tạo Văn chỉ: Bia cao 80cm, rộng 55cm, dày 11cm. Trán bia cao 23cm được trang trí hình mặt trời và vân mây ở cả 2 mặt; thân bia cao 58cm cũng viết chữ 2 mặt. Xung quanh diềm bia trang trí hình hoa leo cách điệu.
Bia thứ 3 ghi niên hiệu Thiệu Trị thứ 6 (1846) ghi lại việc trùng tu chùa Thiên Vương vào năm Giáp Thìn (1844).
Bia cao cả đế là 1,4m, rộng 65cm, dày 14cm. Trán bia nhọn cao 30cm được trang trí hình mặt trời ở giữa, xung quanh là hình vân mây cách điệu. Xung quanh diềm và đế bia cũng trang trí hình vân mây. Bia viết chữ 4 mặt, mặt 1 ghi lại việc các quan viên hương lão sắc mục xã Khánh Trạch, tổng Tuần La, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa họp bàn việc trùng tu và vận động quyên góp tôn tạo chùa...mặt 2 ghi tên những người đóng góp trùng tu, tôn tạo chùa; mặt 3 ghi:“ Ngọc điện huy hoàng quang đầu tọa” tức “Điện ngọc huy hoàng ngời Bắc Đẩu”; mặt 4 ghi: “Kim lô phức úc, dẫn thiên hương” tức “Lò vàng thơm ngát dẫn hương trời”.
Ngoài các công trình chính của ngôi đền còn có 2 tấm bia ghi lại danh sách những người có lòng hảo tâm cung tiến để tôn tạo lại ngôi đền được đặt hai bên tả và hữu của sân trước.
Chùa Thiên Vương:
Về lịch sử ngôi đền thì đến nay chưa tìm thấy tài liệu nào ghi chép một cách cụ thể và chính xác thời gian xây dựng.
Tuy nhiên, căn cứ vào tấm bia ghi lại việc nhân dân ấp họp bàn việc tu tạo chùa vào mùa Thu năm năm Giáp Thìn (1844) cho chúng ta biết, chùa Thiên Vương là một ngôi chùa có từ rất lâu đời. Bia có niên đại Thiệu Trị thứ 6 (1846) tức năm Bính Ngọ.
Trải qua thời gian và nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, ngôi chùa đến nay không còn nữa. Từ năm 2010 đến nay chính quyền địa phương đã cùng với các tầng lớp nhân dân quyên góp, huy động mọi nguồn lực và đang từng bước tôn tạo lại ngôi chùa Thiên Vương.
Hiện chùa được xây dựng theo kiểu kiến trúc hình chữ Đinh (J) gồm có Tiền đường dài 13,3m; rộng 8,2m và Thượng điện dài 5,4m; rộng 5,6m. Chùa được xây dựng bằng gạch và bê tông cốt thép theo lối kiến trúc cổ gồm 2 tầng, 8 mái. Hiện chùa đang trong giai đoạn hoàn thiện phần thô.
Nhìn chung, Cụm di tích Đền Khánh Trạch, chùa Thiên Vương mặc dù đã bị hủy hoại bởi nhiều nguyên nhân khác nhau qua thời gian, hiện ngôi đền đã được tôn tạo lại theo kiểu dáng kiến trúc truyền thống và đang là nơi sinh hoạt tín ngưỡng quan trọng của nhân dân xã Bình Minh, huyện Tĩnh Gia cũng như nhân dân quanh vùng.
Di tích này cần được sự quan tâm hơn nữa của các tầng lớp nhân dân, chính quyền địa phương các cấp bởi đây không chỉ mang ý nghĩa về tín ngưỡng mà còn là nơi ghi lại dấu ấn lịch sử, văn hóa “thuần Việt” của người xưa để lại. Để làm được điều đó thì việc cần thiết và quan trọng là phải sưu tầm lại các hiện vật đang thất lạc trong nhân dân có liên quan tới ngôi đền thờ xưa để có tư liệu phục vụ cho việc trùng tu, tôn tạo lại di tích này như những gì nó đã vốn có.
Các hiện vật trong di tích:
Hiện ở Cụm di tích Đền Khánh Trạch, Chùa Thiên Vương gồm có các hiện vật sau:
Hiện vật cũ: Bia đá: 03 tấm; Đại tự cổ: 01 bức; Bình đựng rượu bằng sứ: 01 cái; Hòm đựng sắc gỗ: 01 cái; Mâm bồng gỗ: 01 cái lớn; 01 cái nhỏ; Khay mịch: 01 cái; Đài nước: 05 cái; Bát hương gốm: 01 cái; Đại tự: 03 bức; Bia đá: 03 tấm; Cây cờ gỗ: 01 đôi.
Hiện vật mới: Bát hương sứ: 10 cái; Lư đồng: 02 cái; Chân nến đồng: 03 đôi; Hạc đồng: 03 đôi; Mâm bồng đồng loại nhỏ: 02 cái; Bát hương đồng: 04 cái; Chuông đồng: 01 cái; Hạc gỗ: 01 đôi cỡ lớn; 02 hạc gỗ nhỏ; Hương án gỗ: 02; Lọng tàn: 02 cái; Lục bình sứ: 01 đôi; Lọ cắm hoa: 02 cái; Tượng gỗ.