Tên di sản : Chùa Vĩnh Phúc
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 425/QĐ-UBND
Giới thiệu
Về không gian và kết cấu của di tích:
Hiện chùa tọa lạc trên một khu đất rộng, cao ráo, thoáng mát thuộc phía Nam thôn Nguyên Thành và xã Thiệu Nguyên, ở về phía Đông huyện Thiệu Hóa, có diện tích là 280,7m2. Các phía Đông, Tây, Bắc đều giáp khu vực dân cư của thôn Nguyên Thành; phía nam (hướng chính của chùa) là tuyến đường liên thôn và dòng Lương Giang (sông Chu). Từ ngoài vào có các công trình sau:
Cổng chùa: được xây bằng gạch với hai trụ vuông có chiều cao mỗi trụ là 2,8m; bên ngoài được trát bởi một lớp vôi vữa. Trên đỉnh của hai trụ mỗi bên được gắn một búp sen bằng sứ.
Sân chùa: được san lấp bằng đất, giữa sân được lát một lối đi bằng bê tông tấm từ cổng vào đến hiện chùa.
Chùa chính: Về quy mô cấu trúc: chùa được cấu trúc theo kiểu chữ Nhất (-) gồm có 5 gian, 6 bộ vì kèo bằng gỗ có chiều dài là 12,7m, chiều rộng là 5m với tổng diện tích là 63,5m2.
Diện mạo bên ngoài: Bờ nóc của ngôi nhà được lợp bằng ngói bò. Bờ dải xây bằng gạch, vôi vữa và cát. Mái trước của chùa lợp ngói mũi lót liệt, mái sau lợp ngói máy.
Kết cấu kiến trúc: Vì kèo của ngôi nhà được kết cấu theo kiểu “chồng rường, bẩy hiên” gồm ba cặp vì đối xứng, được trang trí và chạm khắc tương đối giống nhau. Hai bộ vì hồi là vì số 1 và vì số 6 được kết cấu theo kiểu vì kèo suốt.
Hai bộ vì số 2 và số 5 được kết cấu theo kiểu “Chồng rường, bẩy hiên”.
Hai bộ vì kèo giữa là vì số 3 và số 4 được làm theo kiểu “chồng rường, bẩy hiên” nhưng trốn cột cái, kết cấu cũng tương tự như vì số 2 và vì số 5.
Liên kết giữa các cột cái trước và cột cái sau là hệ thống xà lòng ăn mộng vào thân cột cái của cột tiền và cột hậu. Đầu xà lòng gác lên cột quân. Liên kết giữa các cột cái và cột quân là các xà lòng và hệ thống bẩy. Các bộ vì kèo phía trước được kết cấu theo kiểu chồng rường đấu dế đón lá dong.
Quan sát một vì kèo, nhìn từ phía trước vào chúng ta thấy sự liên kết từ cột quân ra hiên là các bẩy được đỡ bằng các đầu cột quân cộng thêm trợ lực của các con then. Các con then này có nhiệm vụ giằng và đỡ các hoành tải phía trên, các đầu kẻ, đầu bẩy ở đầu cột quân có chức năng đỡ các tàu mái. Tuy nhiên, do các con then ở đây chỉ là một phần trợ lực đỡ các hoành tải của mái nên toàn bộ hệ thống hoành tải của mái hiên được đỡ bởi hệ thống bẩy và tàu mái.
Bộ vì nóc phía trên câu đầu là hai con rường chồng lên nhau và thu hẹp dần theo kết cấu nóc mái ngôi nhà. Các con rường ở đây được đỡ bởi các đấu trụ vuông nằm trên câu đầu. Đầu con rường thứ nhất trên bộ vì nóc ăn mộng vào đầu cột lớn; đầu con rường thứ hai ăn mộng vào đầu trụ đứng. Hai trụ đứng này được nối với nhau bởi một con rường dài nằm ngang ăn mộng vào trụ đứng đỡ hai hoành tải của mái trước và mái sau. Trên cùng là một đấu bát đỡ thượng lương, đây là điểm mút cuối cùng của cấu trúc bộ vì kèo. Toàn bộ hệ thống khung gỗ và rui, mè của nhà thờ đều được làm bằng các loại gỗ sến, mít và lim.
Đặc biệt, phía ngoài hiên là các con then có nhiệm vụ đỡ giằng trợ lực thêm cho các hoành tải từ đầu cột quân xuống đến tàu mái. Cuối cùng là một bẩy hiên mà nghè ăn mộng vào đầu cột quân. Đầu kẻ có nhiệm vụ đỡ tàu mái.
Tất cả các bộ vì kèo khung gỗ của ngôi nhà được tạo bởi một bố cục liên kết chặt chẽ, chắc chắn và có tính chất đăng đối giữa các bộ vì kèo với nhau.
Nghệ thuật trang trí:
Đề tài trang trí trong kiến trúc chủ yếu trên các đấu, trụ, đầu bẩy, đầu kẻ, xà nách, câu đầu, con rường,.. Đề tài là hoa văn hình chữ Thọ, hình hoa lá và hình rồng trong mây cách điệu. Đặc biệt, hình tượng hoa sen cách điệu ở đây chủ yếu được trang trí trên các bát đấu với nét chạm khắc sâu đã tạo nên sự uyển chuyển, phóng khoáng, gần gũi với thiên nhiên và mang đậm tính chất của một công trình Phật giáo.
Nhìn chung, đề tài trang trí trên các bộ vì kèo của ngôi nhà tương đối giống nhau và có tính đồng nhất, hài hoà.
Về bài trí đồ thờ:
Gian giữa là nơi đặt bệ thờ bằng gạch, xi măng và vôi vữa gồm có hai lớp. Lớp trên cùng là nơi thờ Phật có kích thước chiều rộng là 65cm, dài 195cm, cao 112cm, đặt một lư đồng, một đôi hạc đồng và hai cây đèn hoa đăng. Lớp dưới rộng 80cm, dài 195cm, cao 96cm, gồm một bát hương đồng, hai chân nến đồng, hai lọ hoa đồng.
Gian thờ bên hữu là nơi thờ Đức Ông. Bệ thờ được xây bằng gạch, xi măng và vôi vữa gồm có hai lớp. Lớp trên cùng có kích thước chiều rộng là 33cm, chiều dài là 110cm, cao 22cm gồm có một bát hương sứ. Lớp dưới có kích thước chiều rộng là 77cm, dài 166cm, cao 82cm, gồm có hai lọ cắm hoa bằng sứ; hai cây nến điện bằng nhựa và bốn chén sứ.
Gian thờ bên tả là nơi thờ Thánh Mẫu, bệ thờ được xây bằng gạch, xi măng và vôi vữa gồm có hai lớp. Lớp trên cùng có kích thước chiều rộng là 63cm, chiều dài là 155cm, cao 14cm gồm có một bát hương sứ; Lớp dưới có kích thước chiều rộng là 80cm, dài 155cm, cao 85cm gồm có hai lọ cắm hoa bằng sứ; hai cây nến điện bằng nhựa và bốn chén sứ.
Ngoài ra, phía dưới ban thờ Thánh Mẫu còn có ban thờ Thổ địa cũng được xây bằng gạch, xi măng và vôi vữa, ở trên đặt một bát hương sứ. Hệ thống các ban thờ này chưa đặt tượng.
Tóm lại: Chùa Vĩnh Phúc mặc dù đã bị ảnh hưởng bởi nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, cùng với sự biến đổi của thời gian nhưng vẫn giữ được nếp kiến trúc cũ, đặc biệt là bộ khung gỗ. Nghệ thuật tạo hình là những chạm khắc của các nghệ nhân thời xưa đã gửi vào đó những tâm tư, ước vọng qua những đề tài mang đậm yếu tố Phật giáo về mặt công trình tôn giáo truyền thống của người Việt.