Tên di sản : Chùa Thông

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di tích : Di tích lịch sử

Sô quyết định : Số 570/QĐ-VHTT

Giới thiệu

Chùa dựng hướng Tây Nam trên sườn núi Thông. Phía Bắc giáp làng Thượng - xã Nga Thắng; phía Tây giáp sông Báo Văn và bên kia là xã Hà Toại thuộc huyện Hà Trung. Phía Nam giáp sông Mã và biên kia là xã Quang Lộc (Hậu Lộc); Phía Đông giáp Nga Nhân.

Vị trí chùa cao ráo thoáng đãng, cây cối sum suê, toả mát.

Kiến trúc chùa bao gồm: Chùa chính, nhà tổ và các công trình phủ.

Chùa chính: Kiến trúc theo kiểu chuôi vồ (J) gồm Tiền đường và Hậu cung. Tiền đường (dài 7m x rộng 3,3m = 23,1m2). Hiên Tiền đường (dài 7m x rộng 2,8m = 19,6m2).

Liền kề với tiền đường là hậu cung (dài 3,6m x rộng 3m = 10,8m2). Toàn bộ Tiền đường và Hậu cung được xây dựng theo lối vòm phía ngoài là 4 mái, cấu trúc theo kiểu chồng diêm. Mái lợp ngói mũi, được trang trí đường gờ chỉ và hoa văn nổi. Niên đại xây dựng thời Nguyễn.

Nhà tổ: Trước đây bị phá hủy, mới được tu sửa lại có điện tích 28m2 (dài 7m x rộng 4m). Trong chùa thờ 4 vị sư trụ trì chùa đã qua đời.

Liền kế với nhà Tổ là cung thờ Mẫu có diện tích 19,2m2 (Dài 4,8m x rộng 4m).

Ngoài các công trình chính, chùa còn có nhà bếp, giếng nước và các công trình phụ khác, như nhà bếp, nhà kho…

Phía sau và trước chùa là vườn chùa - nơi trồng rau màu phục vụ sinh hoạt cho nhà chùa. Xen lẫn trong khu vực trồng rau màu này là các bồn hoa cây cảnh bốn mùa nở hoa thơm và toả bóng mát, làm cho cảnh sắc của ngôi chùa càng thêm hấp dẫn sầm uất.

Tóm lại: Chùa Thông được cấu trúc bao gồm các công trình kiến trúc chính là: Cổng chùa, (tam quan) đã bị phá - sân chùa - chùa chính (gồm bái đường và chính điện) - nhà thờ tổ cung thờ Mẫu. Trong cấu trúc này, thì nhà Tổ và cung Mẫu mới được tu sửa lại.

Cách bài trí tượng phật:

Trong nhà Tiền đường chủ yếu được sử dụng để bài trí tượng hộ pháp. Tượng hộ pháp được đặt ở hai gian bên nhà Tiền đường. Hộ pháp có nghĩa là bảo hộ cho Phật pháp. Vì có sự mệnh bảo vệ Phật Pháp nên hai pho tượng này được bày ở nhà bái đường. Về hình dạng, Tượng Hộ pháp được tạc hình người võ sỹ, mặc áo giáp, tay cầm khí giới, đầu đôi mũ trụ, ngồi trên lưng hai con sấu. Tiếp đến hai bên nách của bái đường còn bố trí thập điện Diêm Vương, nhưng ở đây chỉ còn hai pho tượng: Đức ông và tượng bà. Tượng Đức ông bố trí ở góc trái của Bái đường. Theo cách đi lễ thì phải vào trong phật điện biểu hiện xin phép Đức ông vào lễ phật. Đức ông được thực hiện, mặc áo bào đôi mũ cánh chuồn ngồi trên bê. Theo thuyết phật pháp thì tượng Đức ông này nghe lời Phật thuyết pháp mà giác ngộ, rồi trở thành thần linh cai quản Chùa. Sau đó vào lễ phật ở chính gian giữa.

Như vậy, ở trong nhà Bái đường, cách bài trí các pho tượng như trên mang ý nghĩa bảo vệ, hộ trì phật pháp. Vì vậy, nó tạo nên cảm giác trang nghiêm về sức mạnh thiêng liêng nơi thờ phật.

Ở nhà chính điện có 14 pho tượng Phật được bài trí trên 3 lớp bàn thờ, trong đó có 10 pho tượng cô được sắp xếp như sau:

Lớp bàn thờ cao nhất: Là 3 pho tam thế ngồi ngang nhau, tượng trưng cho Chư phật thuộc về ba đời: Phật quá khứ, phật hiện tại và phật tương lai (vị lai). Ba tượng được ngồi trên toà sen, có kích thước và hình dạng giống nhau, Đỉnh đầu có gồ thịt nổi cao như búi tóc, tóc xoắn ốc, tại dài, ngực có ấn chữ vạn, mặt tròn như nguyệt, mình có sắc hoàng kim rực rỡ.

Lớp bàn thờ thứ hai: Bài trí 3 pho tượng cùng dãy gọi là di đà tam tôn. Ngồi giữa là tượng phạt A di đà, ngồi trong tư thế tọa thiền, tóc xoắn ốc, đầu để lộ đỉnh, không đôi mũ, mắt nhìn xuống như đang suy tư. Tượng mặc áo cà sa với những nếp gắp rất đều. Hai bên là tượng thần Thổ địa (bên phải) và Bồ Tát tọa sơn (bên trái). Thần thổ địa là người chủ của khu vực Chùa, trông coi toàn bộ tài sản của nhà Chùa. Tượng thần thổ địa diễn tả một ông già mặt đỏ, râu bạc, nét mặt hiền từ nhưng rất nghiêm ở tư thế ngồi. Vị thần Bồ tát tọa sơn, vị thi giả giúp việc cứu thế cho Phật A Di Đà.

Ở lớp giữa bàn thờ thứ nhất và thứ 2 được bố trí tượng Phật Thích Ca sơ sinh đứng trong tòa Cửu long. Tượng được diễn tả ngài lúc mới sinh có hình tiểu nhi, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất. Có 9 rồng vây bọc và chầu vào trên đầu về ba mặt sau lưng trên những đám mây có đủ chư Phật.

Lớp bàn thờ thứ 3: Gồm 3 pho tượng cùng dãy gọi là Di đà tam tôn. Ngồi giữa là tương phật Di lặc bồ tát, được diễn tả có dáng thư thái, thanh thản, bạng phệ, để vai và mình trần, thân hình đẫy đà, miệng cười lạc quan. Tay phải úp lên đầu gối, tay trái nắm khum đặt giữa trên đùi thể hiện những dấu hiệu cho thấy ngài không còn lo buồn gì nữa. Bên trái là Văn Thư Bồ tát, bên phải là tương Phổ Hiền Bồ tát là hai vị thị giả giúp Phật tế độ chúng sinh. Văn Thư Bồ tát giúp về phần trí tuệ. Còn Phổ Hiền Bồ tát giúp về phần sư lý, Tượng văn thư bồ tát cưỡi sư tử xanh, phổ hiền cưỡi voi trắng...Dưới lớp 3 bàn thờ này là nơi ngồi tung kinh của nhà sư.

Cùng với những lớp tượng kể trên, nhà chính điện cũng là nơi tập trung những hiện vật chạm trổ, như đai tự cần đối và một số đồ thờ khác...mang ý nghĩa trang trí làm tăng thêm sự trang nghiêm, của điện thờ...Trong đó, hình tượng bệ sen, hoa sen được tập trung thể hiện một cách nổi bật nhất. Bởi vì đạo Phật thường lấy hoa sen làm biểu tượng, hoa sen tượng trưng cho sự trong trắng và hoàn hảo. Điều đáng nói là các bức tượng ở đây đạt đến một kỹ thuật tinh xảo, một trình độ nghệ thuật tiêu biểu cho mỹ thuật thế kỷ XIX ở Thanh Hóa:

Ngoài cấu trúc chính của Chùa như đã giới thiệu ở trên. Còn một số kiến trúc không thể thiếu được ở bất kỳ một ngôi chùa nào đó là Nhà thờ Tổ. Ở Chùa Thông, nhà Tổ được làm ra một vị trí riêng bên cạnh nhà Mẫu, quay mặt về hướng chùa chính.

Vì địa điểm xây dựng chùa cạnh sườn núi, vì thế mà việc mở rộng thế đất lúc xây dựng có lẽ còn hạn chế. Nhà thờ Tổ (hay còn gọi là nhà Tăng đường), chủ yếu thờ 4 vị sư tổ đã tu hành tại chùa như Vĩnh phái,…

Tóm lại: Qua cấu trúc và bài trí nội thất ở chùa Thông hiện còn, chứng tỏ đây là một công trình kiến trúc nghệ thuật dùng để thờ phật, còn gìn giữ được khá nguyên vẹn. Vì vậy, nó là Di tích văn hóa cực kỳ quý giá, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lịch sử văn hóa truyền thống Việt Nam.

Những hiện vật trong di tích:

Ngoài những pho tượng kể trên, Chùa Thông còn có các hiện vật như sau:

Chuông đồng thời Tự Đức (1857).

Bát tượng đá, bát hương gốm cổ.

Hai bức đại tự bằng gỗ.

Các bức đại tự, câu đối bằng vải nỉ (loại mới)...

Hình ảnh Chùa Thông

Chùa Thông

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật