Tên di sản : Chùa Ngọc Châu (chùa Chặng)
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : 346/QĐ-UBND
Giới thiệu
Chùa Chặng ban đầu hình thành trên tính chất của loại hình chùa Hang như những ngôi chùa thường thấy ở miền núi. Sau này ngôi chùa được xây dựng thêm nhiều hạng mục kiến trúc như hiện nay. Các hạng mục kiến trúc của chùa Ngọc Châu được xây dựng liên kết thành một khối nối liền. Tuy nhiên, các công trình chính của chùa đều tận dụng lòng hang để làm không gian thờ tự. Từ ngoài vào trong chùa Ngọc Châu có các hạng mục kiến trúc như sau:
Giếng ngọc: Mới được tôn tạo lại bên trái, phía ngoài của cổng Tam quan.
Sân khẩu: Mới được xây dựng bên phải phía ngoài cổng Tam quan để phục vụ việc tổ chức các sự kiện của chùa và của nhân dân địa phương.
Cổng Tam Quan: Dài 16,5m, đỉnh Phật môn cao 11m, Tam quan được cuốn vòm, chia làm ba của để đi vào chùa chính. Tam quan được xây dựng gồm 4 trụ biểu. Trụ biểu thứ nhất cân đối với trụ biểu thứ 4 có chiều cao 7m, rộng 80cm, thân trụ có khắc đôi câu đối chữ Hán:
Phiên âm:
Phạm vũ huy hoàng, hàng khổ hoa khai kim thế giới
Thiền lâm mậu thịnh, Bồ đề quả kết ngọc lâu đài.
Tạm dịch:
Phạm vũ huy hoàng, hàng khổ nở hoa Kim thế giới”.
Thiền lâm mậu thịnh, Bồ đề kết thành Ngọc lâu đài”.
Trụ 2 cân đối với trụ 3, có chiều cao 6m, thân cột được khắc đôi câu đối.
Phần cổng chính chia làm hai phần. Cửa chính cuốn vòm, cao 5m, gác chuông cao 5m. Phần trên được thiết kế 2 tầng, 8 mái, chính giữa là bánh xe pháp luân. Phần cổ diêm được đắp nổi 4 chữ hán: Pháp Vũ quân triêm (Mưa Pháp thấm đều). Lan can của gác chuông tạo bức cuốn thư viết tên chùa Ngọc Châu tự. Hai bên là hệ thống cầu thang. Tả nghi, hữu nghi có kích thước giống nhau: Rộng 2,5m, được thiết kế hai tầng tám mái. Trên thân các trụ biểu cửa Nhập thiền môn khắc chữ:
"Cẩm Sơn hội âm bình, quần sinh cộng lạc
Ngọc Châu tân cảnh sắc, vũ trụ hồi xuân".
Tạm dịch:
Cẩm Sơn hội ngộ, quần sinh đều hoan lạc,
Ngọc Châu cảnh sắc mới, vũ trụ hồi xuân.
Cửa Đăng giác ngạn khắc câu đối:
Tính hải thậm thâm, pháp vũ từ phong quan tự tại
Không môn tối quảng, tường vân tuệ nhật kiến Như Lai.
Tạm dịch:
Tính hải rất sâu, Pháp vũ từ phong như tự tại.
Không môn rộng rãi, tường vân, tuệ nhật thấy Như Lai.
Qua Tam quan là một không gian rất rộng rãi và thoáng đãng, chính giữa lối vào chùa. Cách cổng Tam quan khoảng chừng 5m là một cây cầu đá xây cuốn vòm bắc qua một con suối nhỏ. Thành cầu gồm 12 trụ, liên kết giữa các trụ là thành đá, bờ thành chạm hình cánh sen tạo thành các khuôn tranh, bên trong khuôn tranh trang trí các hình khánh đá, trên thân khánh khắc nổi hoa văn tứ quý, nền cầu lát đá xanh.
Từ cầu đá qua khu sân rộng có trồng các loại cây ăn quả và cây cảnh tạo sự thanh tịnh ở chốn thiền lâm là Tam Bảo Phật.
Tam bảo Phật được xây dựng sát vách núi, quay hướng Tây và tận dụng lòng hang ăn sâu vào chân núi để làm không gian thờ tự. Tam Bảo có chiều rộng 2,03m, dài 3,5m, lòng hang cao nhất 3,2m, thấp nhất 0,95m. Nhà Tam bảo xây dựng xây dựng theo kiểu hai tầng tám mái. Trên nóc, phần chính giữa đắp hoa cúc cách điệu đỡ bánh xe luân hồi. Hai bên kìm nóc trang trí hạc long thủy quái. Các bờ nóc được khóa bởi bát đấu vuông, đầu đao của mái trên tạo hình hoa lá cách điệu.
Phần Cổ diêm tạo thành ba phần bằng nhau. Bên trong là đại tự chữ Hán: Chính giữa là, bên phải: Phật quang phổ chiếu (ánh sáng của đức Phật từ bi chiếu khắp nơi), bên trái: Pháp thủy trường lưu (Dòng Pháp thủy chảy mãi không thôi). Toàn bộ con sô bờ chảy của mái dưới tạo hình rồng ẩn vân, đầu rồng quay lại tạo thành các đầu đao.
Hệ thống các cột ngoài hiên đều được khắc câu đối chữ Hán ca ngợi công lao của đức Phật.
Hệ thống cửa thiết kế theo kiểu thượng song hạ bản. Hệ thống vì kèo bên trong làm bằng bê tông theo kiểu chồng rường với các đại tự: Đại hùng bảo điện, Từ vân biến lý, Pháp vũ quân triêm. Giữa lòng nhà và hang được ngăn cách bởi hệ thống bức võng chạm lộng và chạm thủng. Trên thân các cột long cốt là các đôi câu đối:
Phiên âm:
Phật quang phổ chiếu tam thiên giới
Pháp thủy trường lưu ngũ đại châu.
Tạm dịch:
Ánh sáng của đức Phật phổ chiếu ba nghìn thế giới
Pháp thủy chảy dài khắp năm châu.
Bên trong là hệ thống đại tự, câu đối khắc gỗ: Ngọc Châu tự, diệu hóa nan lượng (biến hóa kỳ diệu khó lường), Thần cơ mạc trắc (Cơ thần biến hóa không đo được).
Nhà Mẫu: Liền kề và nằm phía Nam của nhà Tam Bảo, có chiều dài: 4,9m, rộng nhất: 9m, hęp nhất 3m, cao nhất 5,7m, thấp nhất 3m. Phần bên ngoài được làm bằng chất liệu bê tông giả gỗ, giống như nhà Tam bảo, nhà mẫu cũng được tân dụng lòng hang làm nơi thờ tự. Phía trước tòa nhà xây theo kiểu chồng diêm, hai tầng mái (chỉ có mái trước), trên đỉnh trang trí rồng chầu mặt nhật. Phía trước có hai trụ biểu có chiều cao 3m, ba mặt đắp câu đối, đỉnh cột gắn biểu tượng chim phượng lật. Cột hiên hình tròn, trên thân cột đắp chữ. Đại tự phía trên cửa chính có nội dung: Mẫu nghi thiên hạ, Anh linh đệ nhị và một số câu đối ca ngợi công lao của Thánh mẫu.
Nhà Tứ ân: Ngôi nhà này làm bằng chất liệu bê tông giả gỗ, hai tầng tám mái, kết cấu 3 gian, hai chái có kích thước dài 5,7m, rộng 12m (cả hiên), lòng hang cao 3,5m, rộng nhất 9m, hẹp nhất 7m. Phần cổ diêm là 4 chữ Hán: Tổng báo tứ ân; Cột giữa là câu đối.
Bên trong là ba bức đại tự: Tứ Ân tổng báo (báo đáp bốn ơn), Hải đức sơn công (Công đức lớn lao như núi sông), tiên tổ cao mình (tổ tiên cao cả anh minh)
Nhà Tổ: Xây dựng theo kiểu nhà cấp 4, sân thượng chắn mái, 5 gian, cửa Pa nô kiểu mới. Chiều rộng 14,8m, dài 7,9m, cao 7,2m, hè rộng 2,2m. Nhà gồm có 3 vì kèo suốt gác trếnh, nâng đỡ vì kèo bằng hai trụ trốn; bên trong là câu đối.
Liền kề với nhà tổ là dãy nhà sinh hoạt của nhà chùa gọi là nhà khách, xây theo kiểu nhà cấp 4, chiều dài 11m, rộng 4,5m, cao 5,4m, hè rộng 1,5m. Nhà gồm 4 gian kèo suốt gác trếnh.
Đối diện với nhà khách, cách khoảng 3m là lầu Ngọc Hoa công chúa. Toàn bộ khu lầu được làm bằng chất liệu đá xanh, có chiều dài 4m, rộng 4m, cao 2,5m. Bao quang toàn bộ khu lầu là hệ thống tường bố trí các trụ nhỏ. Hai trụ cổng phía trước đều được chạm nổi hoa văn sóng nước, liên kết các trụ bằng bờ thành và gờ thành. Thân của cột trụ chính có khắc nổi câu đối:
Giang Sơn hữu tình Công chúa ngự
Thiên địa quảng đại Ngọc Châu từ.
Tạm dịch:
Núi sông hữu tình Công chúa ngự
Trời đất bao la có đền thờ ở chùa Ngọc Châu.
Phần lăng mộ thiết kế theo kiểu hai tầng tám mái, đỉnh chóp hình búp sen, phần cổ diêm giữa hai tầng mái khác 4 chữ Hán: Ngọc Hoa chí linh (Ngọc Hoa công chúa cực linh thiêng). Bên trong là tấm bia đá nhỏ có khắc dòng chữ: Công chúa nương Ngọc Hoa hiển anh linh.
Ngoài ra, từ Tam quan đi vào phía bên Phải còn hai ngôi nhà sàn. Nhà sàn thứ nhất có chiều dài 10m, rộng 6,4m. Nhà sàn thứ hai có chiều dài 8,4m, rộng 5,9m là nơi bảo tôn văn hóa dân tộc Mường và là nhà khách của nhà chùa.
Hệ thống thờ tự:
Theo kết cấu công trình, hệ thống thờ tự của chùa Ngọc Châu được bài trí như sau:
Nhà Tam Bảo:
Ban thờ thứ nhất (từ trong ra ngoài, của Hậu cung là lòng hang): Lớp trên cùng là Tam thế Phật. Lớp thứ 2 chính giữa đặt tượng Phật tổ. Lớp thứ 3 chính giữa bài trí tượng phật Thiên thủ thiên nhãn, hai bên là tượng Thị giả. Lớp thứ 4 chính giữa đặt tòa Cửu Long, bên phải là tượng Thánh Tăng, bên trái tượng Ngọc Hoàng. Lớp phía dưới là 7 pho tượng Dược Sư. Bên phải của ban thờ chính là ban thờ Đức Thánh Hiền, bên trái là ban thờ Đức chúa Ông.
Ban thờ thứ 2 (của Hậu cung): Được bài trí ba pho tượng Tam Thánh.
Ban thờ thứ ba (Ngoài Tiền đường). Hai ban thờ hai bên, nhìn ra phía trước là tượng hộ Pháp, dãy phía ngày đặt hệ thống các tượng của Thập điện Diêm Vương.
Nhà Mẫu:
Ban thờ bên trong: Trong cùng là động Sơn trang gồm 1 chúa và 12 cô, tiếp theo là Tam tòa Thánh Mẫu và hai bên đặt tượng Chầu Quỳnh, chầu Quế. - Ban thờ bên ngoài (ban thờ chính): Trong cùng đặt tượng Ngọc Hoàng, hai bên là Nam Tào, Bắc Đẩu. Tiếp theo đặt Ngũ vị tôn ông (5 ông lớn). Ngoài cùng là tượng ba ông quan hoàng (Hoàng Bơ, Hoàng Bảy, Hoằng Mười). Phía dưới hai bên đặt tượng Thánh cô, Thánh cậu. Cung bên phải (từ ngoài vào) đặt tượng bà chúa bản đền. Cung bên trái thờ đức thánh Trần triều.
Nhà Tứ ân: Đặt tượng Địa Tạng và các ảnh vong của các gia đình phật tử gửi lên thờ tự ở chùa.
Nhà Tổ: Có tượng Tổ và hai vị Tì giả. Hai bên là ban thờ Gia tiên (những người có công xây dựng ngôi chùa).