Tên di sản : Chùa Khán Sơn

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di tích : Di tích lịch sử

Sô quyết định : Số 2521/QĐ-UBND

Giới thiệu

Ngày nay không còn một tài liệu nào ghi chép cụ thể về thời gian xây dựng chùa. Theo các cụ già trong làng kể lại chùa Khán Sơn có từ xưa (không biết có từ bao giờ) được nằm trên quả đồi (địa điểm hiện nay) mặt quay hướng đông nam; đấy là ngôi chùa làng nên quy mô kiến trúc không lớn.

Trước đây chùa được xây dựng gồm 5 gian nhà tiền đường và 3 gian Phật điện nằm trên quả đồi cao, chùa quay mặt về hướng Đông Nam, phía trước là Tam quan (hiện còn nền móng), mãi đến năm 1967 chính quyền địa phương dỡ lấy nguyên vật liệu để xây dựng trường học và nền móng chùa bị san lấp lấy đất đá làm quốc lộ 47, tương ứng với khu dân cư ở. Các hiện vật còn lưu giữ tại chùa như hệ thống móng đá, cột đá, chân tảng, thùng đá mang đậm phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX. Trước mặt chùa bây giờ một nhà dân trong khi đào ao, làm vườn phát hiện móng cổng tam quan, hiện còn nhiều gạch nền móng, gạch, vữa mang phong cách Nguyễn. Để đáp ứng đời sống tâm linh và tinh thần của nhân dân trong việc thờ cúng; chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã Quảng Châu, Hội Người cao tuổi, nhân dân, các nhà hảo tâm đã đóng góp công đức xây dựng lại ngôi chùa trên nền móng cũ.

Hiện nay chùa được địa phương tôn tạo lại một nhà tiền đường 5 gian và phát điện 3 gian.

Trước nhà tiền đường có sân chùa: chiều rộng 13m, dài 19m nền sân lát gạch bát đỏ.

Từ sân lên nhà tiền đường qua 5 bậc được lát bằng xi măng, hè rộng 1,8m, hè thông 3 gian còn 2 gian đầu hồi được xây cuốn cót, nền hè lát gạch bát 30 x 30cm.

Từ hè vào trong nhà tiền đường qua bậc cửa, ngưỡng cửa được làm bằng gỗ. Ngưỡng ngạch có chiều cao 22cm, dày 15cm, có 3 chuông cửa gỗ, mỗi chuồng có 4 cánh cửa đóng mở bằng hệ thống chốt cửa.

Cửa có chiều cao 1,8m, mỗi cánh có chiều rộng 0,62m, dày 0,015m, chất liệu cửa làm bằng gỗ mít. Phía trên các chuông cửa được đặt các tấm ván gió. Có trang trí bức xiên hoa qua các con tiện bằng gỗ.

Nhà tiền đường có chiều dài 13m, chiều rộng 7m, diện tích = 91m2. Cấu trúc dọc thân nhà gồm gian thứ nhất 2,3m, gian thứ hai 2,75m, gian thứ ba 3,3m, gian thứ tư 2,75m, gian thứ năm 2,3m.

Cấu trúc ngang thân nhà: Từ cột hiên đến cột cái trước là 1,85m, từ cột cái trước đến cột cái sau 3,34m, từ cột cái sau đến tường hậu 1,4m.

Tất cả các vì kèo đều làm bằng xi măng giả gỗ, phỏng theo kiến trúc gỗ truyền thống đơn giản, giá chiêng, kẻ chuyền, từ hiên vào đến thượng lương. Đòn tay, rui mè bằng gỗ được bào ngắn, mái lợp ngói Tây. Hai bên đầu độc đắp hai trụ bửu mỗi trụ gắn hình bông sen. Gian đầu đốc tây của tiền đường đặt bàn thờ Mẫu. Tiếp giáp với Tiền đường là Phật điện có chiều dài 7,3m, chiều rộng 4,4m, có 3 vì kèo bằng bê tông giả gỗ, đòn tay rui mè bằng gỗ được bào nhẫn, nền lát gạch bát đỏ 30 x 30cm. Các vì kèo được đặt từ tường hậu của nhà Tiên đường đến tường hậu của nhà Phật điện, không có hàng cột để phân gian. Nền Phật điện không cao hơn so với nền nhà Tiền đường. Trước kia 2 nhà này tiếp giáp nhau bằng hệ thống máng đá và hàng cột đá chống đỡ nhưng hiện nay địa phương không dùng hệ thống máng đá mà dùng hệ thống máng bê tông rộng 35cm, cao 20cm cho thuận tiện. Muốn vào Phật điện phải qua 3 cửa. 1 cửa chính và 2 cửa phụ, các cửa này đều có cánh cửa gỗ đóng mở dễ dàng. Trong Phật điện được đặt và xây các bệ thờ giống chùa ngày xưa gồm 3 bệ thờ chính và 2 bên, hông tường có 2 bàn thờ đặt tượng Nam Tào và Bắc Đẩu.

Hệ thống tượng thờ:

Phật điện có 3 bệ thờ theo thứ tự từ cao xuống thấp. Bệ thứ nhất: đặt 3 pho tượng Tam Thế. Đây là pho tượng tượng trưng cho phật ở ba thời: Quá khứ, Hiện tại, Tương lai (hay còn gọi là Vị lai). Cả 3 pho tượng Tam Thế được làm mới bằng gỗ, hình dáng giống nhau, có kích thước đế cao 0,6m; rộng 0,5 x 0,5m, chiều cao của tượng là 0,85m.

Phật Quá khứ như Đức phật Ca Diếp, phật Hiện tại như Đức phật Thích Ca Mâu Ni, phật Vị lai như Đức phật Di Lặc. Cả 3 pho tượng này được đặt trên bệ gỗ và đài sen cao 41cm, tóc kết hình xoắn ốc, mũi thẳng, gò má hơi cao, thuỳ tai to rủ dài, vành tai tròn, lòng bàn tay cong như búp măng non, các ngón tay thon thả. Tượng khoác áo cà sa để lộ ngực trần, áo không trang trí, chỉ có một số nếp gấp. Toà sen với những cánh sen căng phồng thành cánh sen nhỏ bên trong.

Ba pho tượng đều giống nhau ở tư thế tay, kết ấn tam muội, lòng bàn tay để ngửa lên lòng đùi. Bộ sen tạo theo hình tròn, chia làm hai lớp, các cánh sen được kết sít với nhau. Cả ba pho tượng Tam Thế trong chùa được tạc với kích thước cân đối, vừa phải, hợp với không gian ngôi chùa. Bộ mặt của tượng bao dung nhưng vẫn lộ rõ vẻ nghiêm nghị, mắt tượng tạc với đường nét thanh thoát, nhìn kỹ lộ rõ sự sang quý, nhưng rất xa cách, dễ gần nhưng lại dễ xa, hợp với truyền thống thẩm mĩ của người dân trên nguyên tắc tạc tượng.

Bệ thứ hai: Tượng A Di Đà (tức Vô lượng thọ sống lâu vô cùng) được tạc khá to so với các tượng khác, được đặt trên bệ gỗ có toà sen. Bệ gỗ cao 30cm, rộng 55 x 55cm, tượng cao 90cm, tượng gỗ mới, cách tạo tác cũng rất đặc sắc. Tượng được thể hiện với tư thế đang ngồi trên đài sen thiền định, tóc xoắn ốc, không đội mũ, tai to và chảy dài, mũi dọc dừa trong sáng, lông mày cong thanh tao, mắt khép hờ nhìn xuống chóp mũi như để soi rõ nội tâm . Bộ mặt tượng vốn thanh tú lại có vẻ trầm tư rạng rỡ, miệng mỉm cười đôn hậu. Thân hình chắc lẫn khoẻ mạnh được phủ bởi chiếc áo cà sa có vẻ mong manh, dính lấy thân thể. Những nếp gấp rất đều tạo thành những làn sóng mỏng trải đều sang hai bên thân tượng. Các đường nếp áo nếu nhìn kỹ, chúng ta thấy luôn đổi chiều cho nhau tạo nên tính thẩm mỹ, vẻ đẹp dịu dàng của bậc tu hành. Tượng ngồi xếp tròn, hai bàn tay đặt giữa lòng đùi, bàn tay trái đặt trên lòng bàn tay phải, hai đầu ngón tay cái giao nhau.

Bệ thứ 3 bài trí tượng Quán thế âm Thiên thủ thiên nhãn (nghìn tay nghìn mắt). Đây là pho tượng cổ cao 0,85m, đế cao 0,67m, rộng 0,5m x 0,5m. Tượng có khuôn mặt hình trái xoan, đôn hậu, đầu phủ khăn và đội mũ áo nhiều nếp chảy xuống. Áo tượng cũng tạo thành mảng vuông với nét chảy xuôi chắc chắn, thế tượng đứng, các cánh tay xếp tương xứng, hợp lý, cân đối ở hai bên. Những cánh tay tượng to tròn lãn, đeo vòng cùng các nếp áo chảy nuột bó sát vào mình, lại có một đôi tay kết ấn “Tam muội”, đặt ở trước lòng. Đây là cặp cánh tay ở thế tĩnh gắn bó với cơ thể một cách tự nhiên. Những cánh tay còn lại như mọc ra từ hai bên sườn. Nhìn từ xa chúng ta thấy tượng phật nghìn tay như có hai bàn tay đang múa, xếp thành hàng dọc thế uyển chuyển linh hoạt.

Hai bên tượng Quán Thế Âm đặt nhích về phía trước là hai đệ tử. Ở bên trái là thiên tài Đồng tử, ở bên phải là Long Nữ. Đây là hai pho tượng cổ có kích thước bằng nhau, cao 89cm, tượng bằng gỗ, tạc ở tư thế đứng thẳng. Hai tượng này như hai trẻ trai và gái được Phật độ làm hiệp sĩ.

Hông bên trái tường đặt tượng Nam Tào trông coi sổ sinh, bên phải tường đặt tượng Bắc Đẩu quản sổ tử. Hai pho tượng này đều được làm mới bằng gỗ.

Đức Ông và Thánh Hiền (là hai pho tượng gỗ mới) ngồi hai bên. Bộ tượng này được tạo với hình dáng cân đối, cách bố trí đường nét tự do, không bị gò bó về phong cách trang phục và khuôn mặt gần giống nhau nhìn chếch xuống, tượng Đức Ông đầu đội mũ ô sa, tay cầm gậy trúc, tượng Thánh Hiền đầu đội mũ cánh sen, tay cầm bố thí, kích thước hai pho tượng này bằng nhau, chiều cao 0,9m, đế cao 0,2m, rộng 0,47m x 0,47m.

Hiện vật trong di tích:

Hiện nay trong di tích còn lưu giữ được những hiện vật sau:

Đại tự câu đối gỗ cũ 1 bộ

Đại tự câu đối gỗ mới 1 bộ

Bia đá: 1 cái (đã mất chữ) (cao 1,15m; rộng 0,80m)

Thùng đá cổ 1 cái (cao 0,45m, dài 1,25m; rộng 0,75m)

Máng đá cổ 5 cái (rộng 0,43m, dài 2,7; sâu 0,80m)

04 cột đá cổ (cao 3,3m, rộng 0,18m; dày 0,18m)

06 Chân tảng đá cổ

01 hòm gỗ cổ

01 mõ gỗ cổ

01 mõ tre cổ

01 trong con cổ

03 pho tượng cổ (tượng Thiên tài Đồng Chữ, tượng Long Nữ, tượng Quan Thế Âm thiên thủ, thiên nhãn)

07 pho tượng mới

01 cuốn thúc ước bằng chữ Nôm

Loại di tích:

Chùa Khán Sơn thuộc loại di tích lịch sử.

Chùa Khán Sơn

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật