Tên di sản : Chùa Hương Quang

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di tích : Di tích lịch sử

Sô quyết định : 416/QĐ-UBND

Giới thiệu

Dừng chân trước chùa Hương Quang, đi qua khoảng đất trống 15m – dài 24m là đến cổng chùa. Bước qua cổng là vào sân chùa. Chung quanh sân chùa là những hàng cây lưu niệm, xen lẫn bồn hoa cây cảnh cho cảnh sắc thiên nhiên ngôi chùa ngày càng hấp dẫn, sầm uất. Phía trái của sân chùa có 4 bảo tháp. Các bảo tháp còn được gọi là Xá lị - nơi cất giữ các hài cốt và ghi bia ngợi ca công đức ngày dỗ của các nhà sư đã tu hành ở chùa Hương Quang.

Bên phải sân chùa là khu vực nhà thờ Tổ, nơi hội họp của các nhà sư, các công trình phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày và đón tiếp khách của nhà chùa. Từ dưới sân chùa, bước lên 3 lớp bậc thềm bằng đá phiến, ta bước vào kiến trúc đầu tiên của ngôi chùa đó là Bái đường hay còn gọi là Tiền đường gồm 5 gian dài 15,50m – rộng 6,75m. Qua Bái đường là nhà chính diện 3 gian dài 3,15m – rộng 5,10m được cấu trúc theo chiều dọc liền kề với nhà Tiền Đường hợp thành kiểu chữ “Đinh”. Đây là kiến trúc chính là nơi bài trí các bàn thờ phật và hành lễ. Phía sau kiến trúc chữ “Đinh” là vườn chùa – nơi  trồng rau màu phục vụ sinh hoạt của sư sãi. Riêng nhà thờ Tổ không bố cục trong kiến trúc chữ “Đinh” mà được làm riêng, liền sát cạnh nhà chính điện ở phía Đông.

Trong nhà Tiền đường, với diện tích 105m2 chủ yếu được sử dụng bài trí tượng Hộ Pháp, bệ thờ thập điện, Thần thổ địa, treo chuông và đặt một số bia ghi việc trùng tu chùa. Tượng hộ pháp được đặt ở hai gian bên cạnh gian giữa nhà Tiền đường. Hộ Pháp có nghĩa là báo hộ cho Phật Pháp. Vì có sứ mạnh bảo vệ Phật pháp nên hai pho tượng này được bày ở giữa Bái đường. Về hình dạng tượng hộ pháp được tạo hình người võ sĩ, mặc áo giáp tay cầm khí giới, đầu đội mũ trụ. Kích thước của tượng rất lớn. Nên dân gian thường nói “to như ông hộ pháp” là cách nói so sánh với hai pho tượng này. Tiếp đón, ở gian cuối phía đông nhà Bái đường, bài trí tượng thần thổ địa. Vị thần này 1 người chủ của khu vực nhà chùa, trông coi cai quản toàn bộ tài sản của nhà chùa. Tượng thần Thổ địa được diễn tả một ông già mặt đỏ, râu bạc, nét mặt hiền từ nhưng rất nghiêm, tư thế ngồi. Ở gian cuối phía Tây nhà Bái đường là nơi treo chiếc chuông đồng thời Tự Đức (1857). Chiếc chuông này trước kia treo ở tầng 2 của tam quan có kích thước cao 0,90m, đường kính miệng 0,55m, nặng hơn 1 tạ. Ở phía cuối nhà Bái đường có xây bệ thờ Thập điện (không có tượng), thờ 10 vị vua cai quản điện dưới âm ty – nên có tên gọi là Thập điện Diêm Vương ở đây còn thấy một số bia ký gửi giỗ ở chùa, có lẫn với bia ghi sự việc ghi sự việc trùng tu, tôn tạo chùa.

Tóm lại: Trong nhà Bát đường chùa Hương Quang được bài trí các pho tượng mang ý nghĩa bảo vệ, hộ trì cho Phật pháp. Vì vậy, nó tạo nên cảm giác, trang nghiêm và sức mạnh thiêng liêng của nơi thờ Phật.

Ở nhà chính điện chùa Hương Quang có 22 pho tượng Phật được bài trí trên 6 lớp bàn thờ. Lớp bàn thờ cao nhất ở sân bên cùng giáp với mái nhà chính diện. Sau đó các lớp bàn thờ đặt tượng cứ thấp dần. Tiếp theo lớp bệ thờ cuối cùng (lớp thứ 6) là Hương án, kề sát, với Hương án là nơi nhờ sư ngồi tụng kinh niệm phật.

Lớp bàn thờ thứ nhất: Là lớp cao nhất gần nóc giáp vách thượng điện đặt 3 pho tượng Tam thế được đặt ngồi trên tòa sen, có kích thước và hình dáng giống nhau, đỉnh đầu có gồ thịt nổi cao như bút tóc, tóc xoắn ốc, tai dài, ngực có chữ Vạn, mặt tròn như mặt Nguyệt, mình có sắc hoàng kim sáng rực.

Lớp bàn thờ thứ hai: bài trí 3 pho tượng cùng dãy gọi là Di đà tam tôn. Ngồi giữa là tượng phật A di đà ngồi trong tư thế tọa thiền. Tóc xoắn ốc, đầu để lộ đỉnh, không đội mũ, mắt nhìn xuống như đang suy tư, miệng hơi mỉm cười, tượng mặc áo cà sa với những nếp gấp rất đều. Ngồi xếp bằng hai chân hai bàn tay đặt giữa đùi, bàn tay trái đặt lên giữa bàn tay phải, hai đầu ngón tay cái giao nhau.

Hai bên tượng A di đà có 2 pho tượng trong tư thế đứng. Đứng bên trái là tượng Quan thế âm đứng bên phải là tượng. Đại thể chí là hai vị thị giả giúp việc cứu thế cho Phật A di đà nên được tạo kiểu đứng chầu bên cạnh A di đà. Cả ba pho tượng trên đều ngồi và đứng trên tòa sen.

Lớp thờ thứ 3 gồm 3 pho tượng thật cùng dãy. Ngồi giữa là tượng Phật Thích ca Mâu Ni đang thuyết pháp. Ngài ngồi trên đài sen đều để lộ viên đỉnh, mặc áo pháp để hở hai bên hữu, tay cầm hoa sen. Bên trái Thích ca Mâu Ni là tượng Ván thư bồ tát, bên phải là tượng Phổ hiền. Bồ tát là hai vị thị giả giúp Phật tế độ chúng sinh. Văn thủ Bồ tát giúp về phần trí tuệ, còn Phổ hiền Bồ tát giúp về phần sự lý. Cả hai pho tượng này đều đứng trên tòa sen.

Lớp thờ thứ 4 gồm 3 pho tượng: Ở giữa tượng Di Lặc Bồ Tát, được diễn tả có dáng thư thái, bụng phệ, để vai và mình trần, miệng cười lạc quan. Tay phải úp lên đầu gối, tay nắm khum đặt ngửa trên đùi thể hiện những dấu hiệu cho thấy ngài không còn phải lo buồn gì nữa. Nên dân gian thường gọi nôm na là: “Ông nhịn mặc để ăn”. Bên trái tượng Di lặc Bồ tát là tượng Pháp hoa lâm Bồ tát, bên là Đại diệu tướng bồ tát. Cả 3 pho tượng này đều ngồi trên đài sen gọi chung là Di Lặc tam tôn.

Lớp bàn thờ thứ 5 và thứ 6 bày 4 pho tợng sứ thiên vương. Cả 4 vị Thiên Vương đều mặc áo Vương phục, bày thành 2 dãy đối nhau. Ở giữa lớp bàn thứ 6 đặt Cửu Long. Tượng được diễn tả ngài lúc mới sinh có hình tiểu nhi một tay chỉ trời, một tay chỉ xuống đất. Có 9 con rồng vây bọc chầu vào trên đầu và ba mặt sau lưng trên những đám mây đủ chư Phật…Cùng với những lớp tượng thờ kể trên, chính điện cũng là nơi tập trung những tác phẩm điêu khắc chạm trổ mang ý nghĩa trang trí làm tăng thêm sự trang hoàng lộng lẫy của điện thờ Phật như các bức cửa võng, đại tự. Đề tài thể hiện là Long – Ly – Quy – Phượng, mây trời và hoa lá cách điệu. Trong đó có biểu tượng hoa sen, bánh xe luôn được tập trung thể hiện một cách nổi bật nhất. Bở vì Đạo Phật thường lấy hoa sen làm biểu tượng, hoa sen tượng trưng cho sự trong trắng và hoàn hảo. Hai chữ “Liên hoa” (hoa sen) trở thành một tính từ rất phổ biến ta thường gặp.

Ngoài cấu trúc chính của chùa như đã giới thiệu ở trên còn 1 loại kiến trúc không thể thiếu được ở bất cứ một ngôi chùa nào, đó là nhà thờ tổ. Ở chùa Hương Quang, nhà thờ Tổ được làm riêng nên cạnh nhà chính điện gồm 5 gian 3 gian giữa đùng đặt bàn thờ Tổ, 2 gian bên làm phòng ở của nhà sư. Nhà thờ tổ hay còn gọi là nhà tăng đường chủ yếu để thờ tượng bốn vị sư tổ đã tu hành tại chùa như: Diệu Nghiêm, Than Lương…Trên bàn thờ tượng 4 vị sư tổ còn có tượng Đức Tổ Tây có dung mạo giống người phương (Ấn Độ), mũi cao, tóc xoăn, râu quai nón. Ngoài ra còn bài trí các câu đối.

Những hiện vật có giá trị:                                                                                           

Ngoài những pho tượng kể trên, chùa Hương Quang còn có các hiện vật có giá trị như: Chuông đồng thời Tự Đức (1857), cao 0,90m, đường kính miệng 0,55m.

Bia chuông chùa Hương Quang dựng năm Tự Đức thứ 10 (1857) kích thước cao 1m – rộng 0,32m, dày 0,10m.

Bia đá “Hương Quang tự bi kí” dựng ngày 25/9 năm Thành Thái thứ 3 (1891). Kích thước cao 0,85m, rộng 0,48m x dày 0,10m.

Bia đá: “Hương Quang kim cổ bi” dựng năm Bảo Đại thứ 2 (1927) gắn ở tường. Kích thước cao 1,63m, rộng 0,90m – dày 0,12m.

Bia ghi trùng tu chùa Cẩm bào: do dương thứ Lý trưởng Nguyễn Xuân Sinh soạn. Bia này gắn ở tường nhà Bái đường, có ghi dòng chữ: cao 1,50m x rộng 0,90m. Vì một mặt gắn vào tường nên không rõ niên đại dựng bia ở mặt sau.

Bia tín thiện tử thần: cao 1,50m x rộng 0,90m có 20 dòng chữ. Trán bia có hình tròn thái cực, riềm bia trang trí hoa lá sen cách điệu. Bia này không thấy ghi niên đại dựng bia.

Bia gửi giỗ chùa Tranh dựng Hoàng triều năm Ất Sửu được gắn ở tường.

Bia đá: Trùng tu Hương Quang tự bi, Dựng năm Bảo Đại thứ 10 (1935).

Có 6 bức đại tự và 14 câu đối.

Nghê đá – Voi đá – ngựa đá (loại nhỏ).

Khánh đá: làm năm Đinh Dậu – không rõ niên hiệu vua nào. Kích thước dài 1,35m, rộng 0,64m, dài 0,12m.

Bia đá: “Bào nội tự bi” dựng năm Bảo Đại thứ 15 (1940) cao 0,95m; rộng 0,54m.

Hình ảnh Chùa Hương Quang

Chùa Hương Quang

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật