Tên di sản : Chùa Đống Cao
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 2997/QĐ-UBND
Giới thiệu
Hiện nay, chùa Đống Cao được tôn tạo lại trên vị trí của ngôi chùa cũ với tổng diện tích đất sử dụng là 5.164,8m2 bao gồm các công trình: Ao, Hồ Thất Bảo, Sân chùa, Nhà Tiền đường, Trung đường, Chính điện, Nhà tổ, nhà bếp, cách nơi dân ở khoảng 300m về phía Đông, xung quanh là đất ruộng trồng màu.
Về cấu trúc: Chùa dựng quay mặt hướng nam có cấu trúc theo kiểu “Tiền nhất (-), Hậu Đinh (J)”. Từ ngoài vào trong di tích gồm có các công trình sau:
Hồ Thất bảo: nằm bên phải từ ngoài vào, hồ hình tròn, đường kính 12m; ở giữa hồ có tượng Quan Âm Bồ tát được đắp bằng xi măng quét sơn màu trắng. Tượng có kích thước cao 4,2m, rộng 1,6m, dày 1,4m, trong tư thế đứng trên đài sen, một tay cầm bình nước cam lồ, một tay kết ấn.
Sân chùa: hình chữ nhật, kích thước chiều dài 10,8m, chiều rộng 9,7m, được lát gạch bát màu đỏ 25cm x 25cm.
Nhà Tiền đường (Bái đường): tiếp giáp với sân là nhà Tiền đường có kích thước dài 10,8m, rộng 4,5m, cao 6,5m, xây theo kiểu phía trong cuốn vòm, phía ngoài ở trên được tạo thành mái chồng diêm, hai tầng. Mái nhà, dán ngói vẩy, bờ nóc đắp hình lưỡng long chầu nhật trên mặt hổ phù, các kìm nóc đắp hình hoa văn triện, đầu đao được đắp uốn cong hình đầu rồng. Chồng diêm được phân thành ba ô hình chữ nhật, hai ô bên đắp trang trí hình chim phượng, ô giữa đắp nổi 3 chữ Hán “Đống Cao Tự”. Phía dưới gồm 4 cột hiên hình vuông, được nối liền với nhau bằng tường cuốn vòm, phía trên các đầu cột đắp trang trí hình tứ linh (long, ly, quy, phượng), thân cột đắp nổi câu đối bằng chữ Hán. Hiên có kích thước chiều rộng 1,1m, chiều dài 10,8m.
Tiền đường gồm 3 cửa cuốn vòm. Cửa giữa có kích thước chiều cao 2,6m; rộng 2,1m, hai cửa bên có kích thước cao 2,5m, rộng 1,2m. Các cánh cửa được làm bằng gỗ theo kiểu cửa bức bàn.
Nhà Trung đường: được liên kết với Tiền đường bằng ba cửa thông gian, cửa giữa có kích thước rộng 3,95m; cao 4,5m, hai cửa bên (thông với hành lang) kích thước rộng 1,4m; cao 2,74m. Diện tích toàn bộ Trung đường dài 6,1m, rộng 7,6m. Mái xây cuốn vòm, dán ngói vẩy.
Nhà Hậu điện: được nối với Trung đường theo kiểu hình chữ Đinh (J) bằng một cửa cuốn vòm rộng 2,5m, cao 2,5m. Mái Hậu điện cũng được xây theo kiểu cuốn vòm, mái dán ngói giống nhà Tiền đường và Hậu cung, có kích thước chiều dài 5,1m, chiều rộng 3,95m.
Nhà Thờ Tổ: được xây dựng phía sau nằm bên hữu Phật điện gồm 3 gian, kích thước chiều dài 6,4m; chiều rộng 5,8m. Hệ thống vì kèo bằng gỗ, các hoành tải, rui, mè được làm bằng luồng, lợp ngói máy.
Về hệ thống thờ tự:
Nhà Tiền đường: có hai tượng Hộ Pháp được đắp vào tường là những vị thần bảo vệ Phật Pháp, mặc giáp trụ, tay cầm vũ khí. Tượng vị bên trái là Khuyến Thiện (gọi tắt là ông Thiện), tượng vị bên phải là Trừng Ác (gọi tắt là ông Ác). Ở phía đông nhà Bái đường có ban thờ tượng Thổ địa, phía Tây là ban thờ Thánh tăng.
Hậu điện: là nơi trung tâm của sự thờ cúng trong chùa, ở đây được bài trí 5 lớp tượng mới bằng gỗ:
Lớp thứ nhất: Tầng cao nhất của bàn thờ ở chính điện, sát vách, có 3 pho tượng gọi là “Tam thế Phật”, tức là các vị Phật của ba thời gian: quá khứ, hiện tại và vị lai. Một trong các Phật quá khứ là Phật A Di Đà, Phật hiện tại là Phật Thích Ca Mầu Ni, Phật tương lai là Phật Di Lặc. Ba tượng Tam thế có kích thước và hình dáng giống nhau, đỉnh đầu có gồ thịt nổi cao như búi tóc, tóc xoắn ốc, tai dài, ngực có chữ vạn mình có sắc hoàn kim sáng rực, mặt nguyệt. Ba pho tượng Tam thế được đặt ngồi trên tòa sen.
Lớp thứ hai: Gồm ba pho tượng gọi là “Di đà tam tôn” hay còn gọi là "Tây phương Tam thánh" gồm tượng Phật A Di Đà ở giữa, tượng Bồ Tát Quan Thế Âm ở bên trái và tượng Bồ Tát Đại Thế Chí ở bên phải. Tượng Phật A Di Đà trong tư thế ngồi toạ thiền. Hai tượng còn lại là hai vị thị giả giúp việc cứu thế cho Phật A Di Đà được tạo tác kiểu đứng chầu bên cạnh. Bộ "Di Đà tam tôn" được đặt ở tầng thứ hai để tỏ ý là mặc dù các ngài ở cõi cực lạc nhưng vẫn có duyên và gần gũi với cõi Sa bà này, gần gũi với chúng sinh.
Lớp thứ ba: Dưới ba pho tượng “Thích ca Mầu Ni” là tượng Phật Thích Ca Mầu Ni (còn gọi là Thích ca giáo chủ) ngồi giữa với tượng Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở bên trái và tượng Bồ Tát Phổ Hiền ở bên phải. Thích Ca ngồi trên tòa sen, còn Văn Thù và Phổ Hiền đứng trên tòa sen. Bộ ba tượng này thể hiện cảnh Phật Thích Ca Mầu Ni đang thuyết pháp.
Lớp thứ tư: tượng Phật bà nghìn mắt nghìn tay được diễn tả bằng hình tướng nữ, có thể nhìn thấy mọi nỗi khổ của chúng sinh và giang tay cứu vớt chúng sinh thoát khỏi bể khổ trầm luân.
Lớp thứ năm: đặt tượng Cửu Long diễn tả Phật Thích Ca Mầu Ni lúc mới sinh. Theo truyền thuyết, khi ngài mới giáng sinh, có chín con rồng xuống phun nước cho ngài tắm. Tắm xong, ngài tự đi được bảy bước về phía trước, tay trái chỉ lên trời, tay phải chỉ xuống đất mà nói "Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn" (trên trời, dưới trời chỉ có ta), xong ngài lại nằm xuống theo kiểu con trẻ. Bên trái tượng Cửu Long là tượng Đế Thích (còn thiếu tượng Phạm Thiên). Đế Thích là vua chủ tể cõi trời dục giới, còn Phạm Thiên là vua chủ tể cõi trời sắc giới. Vì là Vua nên tượng các vị được tạc theo chân dung hoàng đế: đội mũ miện, ngồi trên ngai.
Nhà thờ Tổ ở bàn thờ chính giữa đặt tượng Bồ Đề Đạt Ma, nhà sư Ấn Độ đến Trung Hoa vào khoảng đầu thế kỷ VI, được coi là người sáng lập phái Thiền Tông ở đó. Như vậy, chùa Đống Cao là nơi thờ Phật, mang nét đặc trưng của những ngôi chùa Bắc Bộ. Các pho tượng Phật ở chùa tuy là tượng mới được nhân dân đưa vào sắp đặt phù hợp cách sắp xếp, bài trí của một ngôi chùa truyền thống của người Việt.
Chùa Đống Cao là một ngôi chùa có lịch sử xây dựng từ thời Vua Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa (1680 - 1705) và được nhiều lần trùng tu tôn tạo lại. Mặc dù không còn nguyên gốc, nhưng những gì còn lại đến nay, đặc biệt là tấm bia đá khắc năm Tân Tỵ niên hiệu Tự Đức thứ 34 (1881) đã cho phép chúng ta biết được niên đại khởi tạo, quy mô cấu trúc của ngôi chùa và những người đã quyên góp xây dựng. Đồng thời, qua nội dung tấm bia cho thấy, hình thức sở hữu đất hương hỏa ở chùa, cũng như làng xã Yên Khoái thế kỷ XIX.
Sự ra đời và tồn tại của ngôi chùa đã góp vào khung cảnh chung của nông thôn Nga Yên nói riêng, Nga Sơn nói chung thêm tươi đẹp. Ảnh hưởng của tư tưởng đạo Phật rất lớn đối với con người ở đây, khiến cho mỗi người khi đến chùa đều hướng tới những điều Chân - Thiện - Mỹ và lòng khuyến thiện, khoan dung của đức Phật từ bi và như vậy, con người trở nên hiền hòa và nhân ái hơn.