Tên di sản : Chùa Đầm

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di tích : Di tích lịch sử

Sô quyết định : Số 178/QD-UBND

Giới thiệu

Do di tích đã được cải tạo nhiều nên chỉ còn lại tiền đường và hậu tẩm nối liền với nhau thành hình chữ đinh. Thoạt nhìn trông giống một kiến trúc có kết cấu chuôi vồ. Qua khảo sát kết cấu vì kèo, tường xây cho thấy xưa kia di tích có kết cấu kiểu nhà 4 mái, bành lanh bao quanh. Nhưng do có sự thay đổi trong đợt trùng tu lần cuối vào năm Tự Đức thứ 20 (1867), đền – chùa Đầm đã bị biến dạng trở thành ngôi nhà 2 mái chảy.

Nhà tiền đường: Là một ngôi nhà 5 gian 2 vì, bít đốc, 2 mái chảy, có diện tích 84m2. Hệ thống vì kèo kết cấu kiểu trụ, câu đầu (trốn cột cái) trên chống nóc chữ Đinh, khoảng cách từ xà thượng đến xà hạ là 70cm. Hiên kẻ bẩy, cột chống (trước là cột đá) nay là cột gạch, thêm con ngang để da hiên, xà trụ, câu đầu gỗ vuông soi thêm cạnh hình sống dừa, kèo bố trí kiểu kèo đón lá dong, hoành (đòn tay) vuông, rui lim, lợp ngói liệp (không có mè), mái lợp 2 lớp: ngói liệp và ngói vẩy.

Mặt trước là hệ thống của cửa bàn, nay đã bị mục gần hết, bao cửa dầy, ngạch cửa cao, hệ thống ngưỡng và khung nổ được bố trí liền khớp nhau, xà thượng và xà hạ ở các cửa nổ được bố trí liền khớp nhau, xà thượng và xà hạ ở các cửa bố trí đăng đối, ở giữa khoảng này là các bức ván (bức cốn) hay bức xuân hoa bên trong trang trí những quả thị và những chữ Hán lớn ca ngợi sự quảng đại vô lượng vô giác của Phật giáo. Do đó một số chữ quá mờ hoặc bị mất chúng tôi chỉ còn đọc được là công anh, tắc, từ bi linh giáng, tri ý Hồng Lâm, Đức Duệ Lương.

Phần chắn cửa bằng các lớp tường xây, mặt sau đắp những cột giả gốp vào tường, khoảng cách giữa các cột là cửa thông ra hậu tâm hình vuông, nhưng qua dấu vết còn lại cho thấy trước kia là cửa vòm. Nền nhà lát gạch bát dày, kích thước 40 x 40 cm.

Hậu tẩm: Là ngôi nhà 5 gian xây dựng theo chiều dọc thân đất: hậu tẩm vốn trước là có sân sau: sau này gia cố hiên sau nhà tiền và mặt tiền (hồi) nhà hậu tạo nên 1 vì 2 gian. Hiên sau cửa hậu vốn là mái nhà 4 mái, sau tạo thêm vì, dẫn đến việc tăng thêm 1 gian, tổng cộng có 1 ngôi hậu tẩm đầy đủ 5 gian, 2 vì (bởi thế nên nhà có tới 7 gian). Do đó sửa nên cấu trúc vì kèo cũng có sự khác nhau.

Vì một: (Tính từ ngoài vào) kết cấu theo hình thức: cột cái, cột hiên, con ngang (trốn cột quân), cấu trúc vì kèo theo hình thức kẻ truyền giá chiêng.

Vì hai: Giống vì 1, nhưng cấu trúc kèo theo dạng thức chống rường.

Vì ba: có 6 cột kiến trúc theo hình thức: kẻ truyền giá chiêng. Vì này vốn gốc là vì hồi của nhà 3 gian cũ cho nên trang trí có phần cầu kì hơn (trình bày rõ hơn ở phần điêu khắc trang trí).

Vì bốn: Cấu trúc cũng không có gì khác biệt 2 vì trên nhưng có thêm phần xà lồng (chứng tỏ đây là vì hồi sau).

Vì sáu: Kết cấu theo dạng thức: trốn cột cái (phần vì làm thêm) nhưng cấu trúc vì thì giống các vì 3, 4, 5.

Tất cả hệ thống vì kèo trong nhà hậu cung đều có kích thước lớn, cột kê đồ sộ, cột cái có kích thước 33cm, cột quân và cột hiên có kích thước 30cm. Chân tảng có kích thước trung bình 50 x 50cm, hệ thống hoành, rui đều bằng lim, soi vuông trạm cạnh, phần mái lớp 2 ngói. Hệ thống tường thay thế ván dừng trước đây, nên xây khá đầy có cửa sổ thông gió, nền lát gạch loại to, kích thước 45 x 45cm mang niên đại thế kỉ XV.

Phần trang trí điêu khắc:

Do được trùng tu lần cuối vào thế kỉ XIX, bởi vậy hầy hết các mảnh kiến trúc trên vì kèo, bức cốn, lá dong, chủ yếu thấy phong cách mĩ thuật nhà Nguyễn thế kỉ XIX; hầu hết các hoa văn đã bị biến động cứng nhắc, chỉ còn lại một số đồ thờ, mang phong cách mĩ thuật Lê Sơ và Lê Trung Hưng.

Tiền đường: Chạm khắc đơn giản chủ yế là để thô, soi chậm cạnh hình sống dừa trên vì kèo. Riêng phần bẩy có đường soi kép song song.

Hậu tẩm: Trang trí cầu kì, nhưng lại mang phong cách mĩ thuật của nhiều thời đại, nổi trội là mĩ thuật Nguyễn với các họa tiết hoa văn cúc chạm nổi trên các đầu kèo, còn lại phần thân chủ yếu trang trí hoa văn góc cạnh đi đường soi kép hoặc kẻ truyền. Riêng vì số 3 (tức vì hồi của 3 gian cũ) ở 2 cửa nách có đặt (2 bức cửa võng vuông kích thước 1,10 x 1,10cm), trang trí hình tứ linh tứ quý…Phía trên là bức cuốn thư vòm cuối, diềm chạm khắc hoa lá và tứ linh, phần trong khắc nổi chữ Hán ghi lại bút tích của vua Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông tán về Đạo Phật và ca ngợi đạo làm thầy (Giáo). Phần chính giữa là bức cửa võng lớn, kích thước 2m x 2m, sơn son thiếp vàng, bề mặt chạm nổi hình Tam Sơn, cảnh Sơn Thủy lâu dài, phía trên chính giữa là mặt hổ phù, hai bên trang trí hình hoa cúc mãn khai, biểu tượng tứ linh tứ quý.

Ngay bên trên cửa võng chính giữa là 1 bức đại tự lớn sơn son thiếp vàng, chạm nổi hàng chữ “Tây phương cực lạc”, theo lối chữ Phạn, nền đại tự trang trí hình chữ thập, ngoặc nhau, phần khu viền hoa cúc dây điềm những bông cúc mãn khai.

Hệ thống thờ tự:

Tại đây bố trí theo lối thờ tiền phật, hậu thần.

Phần thờ Thần: (Sát hồi sau), hiện có 3 hương án, hương án bên tả, trên đặt 3 thần vị của: Thiên cương đô đại thành hoàng, Cao sơn tôn thần, Quan cơ đô bác Thành Hoàng. Tất cả các vị thần đều đặt tên Long ngai. Long ngai cao 1,00m, rộng 45cm, mỗi ngai có 6 con tiện, đều có rồng quấn, phần đế gồm 3 tầng, 4 mặt chạm nổi mặt hổ phù, 4 góc là 4 chân quỳ Thần vị cao 1,20m; rộng 20cm, đầu thần vị chính giữa tạo dáng hình lá đề, 2 thần vị bên chạm hình hoa sen, trên phần đầu các thần vị khắc hình lưỡng long chầu nguyệt, diềm chạm rồng leo. Bên dưới 3 bức thần vị là 3 mũ sắt, 3 hình hương đá lớn, 3 roi sắt có bao gỗ, chuôi ngà, tất cả các đồ thờ này đều trang trí rồng phượng và cùng mang niên đại thế kỉ XIX.

Hệ thống thờ Phật: Được ngăn cách bằng ván dừng, phía ngoài đặt tượng Phật và tượng Lão Giáo gồm 1 bàn thờ cao nhiều lớp.

Lớp cao nhất là 3 pho Tam thế, lớp thứ 2 là Di đà Tam Tôn, lớp thứ 3 là Thích ca sơ sinh, hai bên là tượng Ngọc Nữ. Lớp thứ 4 đặt tượng Ngọc Hoàng ngồi trên Long ngai, hai bên là Nam Tào và Bắc Đẩu. Lớp thứ 5 đặt 3 pho tượng Tô, bên tả đặt tượng Đức Ông, bên hữu đặt tượng Địa Tạng.

Ngay sát bức cửa võng phía Đông là 1 chuông đồng to được đúc từ thế kỉ XIX, hai bên sập hành lễ là 2 tượng hộ pháp, kích thước 90cm x 1m90, cỡi trên con sấu.

Sau bức ván dừng là phần bàn thờ đặt tượng Mẫu.

Tượng chính là tượng Mẫu Thượng thiên, bên tả là Mẫu Thượng ngàn, bên hữu là Mẫu thoải. Cả 3 pho tượng này đều sơn son thiếp vàng, hai bên khám là 2 tượng Tiên nữ nhỏ.

Thống kê hiện vật còn lại trong di tích:

Bài vị, Long ngai: 7 bộ.

Kiệu song hành: 1 cái, vòm cuốn mu rùa, rộng 1,2m, cao 1,25m, hậu bành chạm tứ linh, lèo chạm nổi lưỡng long chầu nguyệt, 4 góc là 4 con tiện, chạm rồng cuốn, 4 mặt đế chạm hổ phù, chân quỳ.

Kiệu bát cống: 3 cái.

Long đình: 3 cái, cao 2m10, rộng 90 cm chạm vòm cuốn 4 góc chạm rồng và đao hỏa, phần riềm trang trí tứ linh, mái 2 tầng tách rời, có 4 chân quỳ.

4 thanh kiếm sắt bao gồm bịt đồng.

1 cây đại đao, 1 súng gỗ.

6 cây roi gỗ.

1 chuông đồng cao 1,m2, rộng 50cm.

1 khánh đá rộng 50cm, dài 1,2m.

2 bát hương đá loại lớn, 2 bát hương đất nung có tai, 4 bát hương đồng có tai, 7 bát hương đá nhỏ.

25 pho tượng gỗ lớn nhỏ.

35 đạo sắc phong của các triều vua Cảnh Thịnh, Tự Đức, Khải Định, Gia Long, phong cho 8 vị thần được thờ trong di tích.

1 bia công đức dựng năm Tự Đức thứ 20 (1867) khắc chữ 2 mặt, cao 1,5m, rộng 90cm. Và một số đồ thờ có giá trị kháng như: Bản văn, lọ hương, đài chén.

Hình ảnh Chùa Đầm

Chùa Đầm

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật