Tên di sản : Chùa Phúc Long
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định :
Giới thiệu
Chùa Phúc Long được xây dựng theo hướng Nam có diện tích 1218m2
Phía Bắc: giáp thửa số: 425,426.
Phía Nam: giáp thửa số: 583 (nhà văn hoá làng)
Phía Đông: giáp thửa số: 582, 388, 268, 267.
Phía Tây: giáp đường liên thôn.
Chùa được cấu trúc theo hình chữ Nhị bao gồm một nhà tam bảo, khu nhà mẫu, một khu nhà tổ. Quy mô kiến trúc không rộng, ngày nay chùa được trùng tu lại theo kết cấu ngày xưa.
Nhà Tam bảo thiết kế theo hình chữ tam bao gồm ba dãy nhà, tiền đường, trung đường và hậu cung. Ba dãy nhà được liên kết với nhau bằng hệ thống các hiện trước và sau đổ bê tông. Tiền đường là ngôi nhà gồm 3 gian, 2 vẫy, 4 vì gỗ gác tường chiều dài 8,1m, chiều rộng 8,4m (hai bên có hai hiên thông làm cửa đi về phía sau chùa kích thước 1,6m). Nền lát gạch bát 20cm x 20cm (di tích mới được tôn tạo năm 2000).
Nhà trung đường được làm 3 gian 4 vì gỗ gác tường, thiết kế kiểu tường hồi bít đốc dài 7m, rộng 4,3m mới xây dựng.
Hậu cung: Kết cấu theo chiều dọc gồm 4 vì gỗ góc tường. Những vì gỗ này chỉ bào trơn đóng bén không soi gờ chỉ, không trang trí văn hoa gì: Diện tích là 19,8m2. Nền lát gạch bát 20cm x 20cm.
Nhà Mẫu: đặt hướng Nam, mới được trùng tu lại năm 2000 gồm 3 gian 2 vẫy 4 vì kèo gỗ góc tường hậu và tường long cốt nhà Mẫu có chiều rộng 3,8m, chiều dài 6,9m. Diện tích là 26,2m2.
Nhà tổ: Được đặt theo hướng Nam mới trùng tu lại vào năm 2006, gồm nhà tiền đường 5 gian kiến trúc gỗ 6 vì kèo, bao gồm 4 hàng chân cột, hai hàng chân cột cái, một hàng cột quân sau (cột quân trước khi sửa chữa đã bị tháo và gác vào bức long cốt trước). Xây tường hôi bít đốc.
Kích thước chiều ngang thân nhà:
Gian thứ nhất rộng 1,93m.
Gian thứ 2 rộng 2,60m.
Gian thứ 3 (gian giữa) rộng 2,9m.
Gian thứ 4 rộng 2,60m.
Gian thứ 5 rộng 1,93m.
Kích thước chiều dọc Từ tường hậu đến tim cột quân là 0,5m
Từ cột quân sau đến cột cái là 1,3m
Từ cột cái đến cột cái là 2,60m
Từ cột cái đến bức tường long cốt trước là 1m
Từ bức tường long cốt đến cột hiên trước là 1,3m
Cột cái có chiều cao là 3,8m, đường kính 25cm, cột quân có chiều cao 2,7m đường kính 18cm, cột hiên có chiều cao 2,1m đường kính 15cm. Như vậy nhà Tiền đường có tổng số 22 cột đứng trên hệ thống chân tảng, (gồm hai hàng cột quân trước sau; hàng cột hiên, hàng cột cái sau; chốn hàng cột cái trước). Đường kính của các cột tỷ lệ tương ứng với nhau nên hình dáng của các cột cũng có quy định rõ ràng theo đường kính cột.
Kết cấu vì kèo:
Kết cấu các vì kèo nhà tiền đường giống nhau theo kiểu giá chiêng, chồng rường kẻ chuyền. Từ kẻ hiên vào bức long cốt được kết cấu kiểu chồng rường, bốn con rường được chồng lên nhau, các con rường này được các nghệ nhân thời bấy giờ trang trí hình hoa cúc cách điệu trông mềm mại, kẻ hiên này cũng được trang trí các hình hoa cúc dây leo cách điệu. Từ bức long cốt đến thượng lương các vì được kết cấu kiểu kẻ truyền đến nóc thượng lương các kẻ truyền này không soi gờ chỉ, không chạm khắc hoa văn gì mà chỉ được bào nhẵn. Các đòn tay được luồn qua lá dong tạo thế vững chắc cho thượng lương. Từ cột quân ra cột cái có hệ thống con ngang, ván dong đỡ lấy đòn tay theo kết cấu dọc, hàng cột quân được tạo vững chắc bởi hai hàng xà hạ. xà thế hoành. Giữa xà hạ và xà thế hoành đặt tấm ván gió tạo thế vững chắc cho khung nhà.
Toàn bộ đòn tay, rui mè làm bằng luồng, xà thượng, xà hạ làm bằng gỗ với hình dáng vuông vắn, chắc khoẻ, có khả năng chịu lực. Toàn bộ khung gỗ của nhà tiền đường được làm bằng gỗ tứ thiết, mái lợp ngói mũi hài nhiều loại, chứng tỏ di tích đã nhiều lần tu sửa. Nghệ thuật trang trí ở đây không có gì đặc sắc, hệ thống cột kèo, quái giang được bào trơn đóng bén, không soi gờ chỉ, tạo thế chắc khoẻ. Nét đặc biệt ở ngôi nhà này nghệ nhân thời bấy giờ chỉ trang trí ở bẩy hiên các con rường ở hiên nền lát gạch bát 20cm x 20cm chứng tỏ là chỉ trang trí ở nơi thoáng mát.
Nhà Trung đường được ngăn cách bởi nhà Tiền đường từ 3 cửa xây cuốn vòm. Kích thước cửa giữa cao 2,3m, rộng 2,5m, hai của hai bàn có kích thước hẹp hơn 1,75m, rộng 0,9m. Nhà Trung đường có tổng diện tích 21,7m.
Nhà 4 vì kèo gác tường: nền nhà lát gạch bát 20cm x 20cm các vì kèo đơn giản không trang trí gì. Nhà hậu cung: được xây hình cuốn vòm, diện tích là 18m2. Trước nhà tổ có sân diện tích: chiều rộng là 6m, chiều dài là 4,2m. Tổng diện tích là 25,2m2. Sân chùa lát gạch bát kích thước là 22cm x 22cm. Qua sân sau đến cổng tam quan, cổng mới xây dựng, thiết kế theo kiểu 2 tầng mái cong, trên có gác chuông.
Hệ thống thờ tự:
Nhà Tam Bảo Phật (Phật điện) là khu thờ chính bao gồm ba phòng bệ thờ theo thứ tự từ cao đến thấp.
Bệ thứ nhất: có kích thước chiều rộng 0,6m; dài 2,06m, chiều dài 3 bệ như nhau, cao 1,1m.
Bệ thứ nhất: Đặt 3 pho tượng Tam Thế. Đây là pho tượng tượng trưng cho phật ở ba thế hệ: Quá khứ, hiện tại, tương lai (hay còn gọi là vị lai). Cả 3 pho tượng Tam Thế được làm bằng gỗ, hình dáng giống nhau, có kích thước đế cao 0,6m; rộng 0,5m x 0,5m, chiều cao của tượng là 0,85m.
Phật quá khứ như Đức phật Ca Diếp, phật hiện tại như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, phật Vị lai như Đức phật Di Lặc. Cả 3 pho tượng này được đặt trên bệ gỗ và đài sen cao 41cm, tóc trên đầu kết hình xoắn ốc, mũi thẳng, gò má hơi cao, thuỳ tai to rũ dài, vành tai tròn, lòng bàn tay cong như măng non, các ngón tay thon thả. Tượng khoác áo cà sa để lộ ngực trần, áo không trang trí chỉ có một số nếp gấp. Toà sen với những cánh sen căng phồng lại thêm đường thành cánh sen nhỏ bên trong.
Ba pho tượng đều giống nhau ở tư thế tay, tượng phật hiện tay đang kết ấn tam muội, để lòng bàn tay ngửa lên lòng đùi. Bộ sen tạo theo hình tròn, chia làm hai lớp, các cánh sen được kết sít với nhau. Cả ba pho tượng Tam Thế trong chùa được tạc với kích thước cân đối, vừa phải, hợp với không gian ngôi chùa. Bộ mặt của tượng bao dung nhưng vẫn lộ rõ vẻ nghiêm nghị, mắt tượng tạc với đường nét thanh thoát, nhìn kỹ lộ rõ sự song quý, nhưng rất xa cách, dễ gần nhưng lại dễ xa, hợp với truyền thống thẩm mĩ của người dân trên nguyên tắc tạc tượng.
Bệ thứ hai: Có kích thước rộng hơn bệ thứ nhất và bệ thứ ba, rộng 1,1m, cao 0,95m. Đặt tượng Quan thế Âm thiên thủ thiên Nhãn (nghìn tay nghìn mắt). Tượng cao 0,85m, đế cao 0,67m, rộng 0,5m x 0,5m. Tượng có khuôn mặt hình trái xoan, đầy đôn hậu, đầu phủ khăn và đội mũ áo nhiều nấp chảy xuống. Áo tượng cũng tạo thành mảng vuông với nét chảy xuôi chắc chắn, thế tượng đứng, các cánh tay xếp tương xứng, hợp lý, cân đối ở hai bên. Những cánh tay tượng to tròn, lăn đeo vòng cùng các nếp áo chảy nuột bó sát vào mình, lại có một đôi tay kết ấn “Tam muội”, đặt lòng ở trước lòng. Đây là cặp cánh tay ở thế tĩnh gắn bó với cơ thể một cách tự nhiên. Những cánh tay còn lại như mọc ra từ hai bên sườn.
Nhìn từ xa chúng ta thấy tượng phật nghìn tay như có hai bàn tay đang múa, xếp thành hàng dọc tạo cho tượng những thời điểm chuyển tiếp, kết hợp hài hoà giữa nghệ thuật không gian và thời gian.
Bệ thứ ba: Đức ông và Thánh Hiền ngôi hai bên. Bộ tượng này được tạo với hình dáng cân đối, cách bố trí đường nét tự do, không bị bó theo công thức tạc tượng. Phục trang và khuôn mặt gần giống nhau nhìn chếch xuống, tượng Đức ông đầu đội mũ ô sa, tay cầm gậy trúc, tượng Thánh Hiền đầu đội mũ cánh sen, tay cầm bố thí, kích thước hai pho tượng này bằng nhau, chiều cao 0,9m, đế cao 0,2m, rộng 0,47m x 0,47m. Hai pho tượng được làm bằng đất nung, bệ tượng cũng được làm bằng đất nung.
Chúng ta biết rằng nhà phật rất coi trọng học thuyết nhân quả, có sự xuyên suốt ba đời về sự báo ứng thiện ác, gieo hạt nào sẽ thu được quả ấy. Cửa phật vốn rất từ bi do vậy bộ tượng Đức ông và Thánh Hiền, là hình tượng cụ thể của việc trung cứu. Chính giữa tượng Đức ông và Thánh Tăng là Thích ca Sơ Sinh được tạc với thế đang đứng trên hoa sen, trong vòng tròn có chín con rồng kết thành, bên trong là một hình bé trai, mình trần mặc váy ngắn tượng trưng cho trẻ nhỏ quấn tã, tay trái chỉ lên trời, tay phải chỉ xuống đất. Theo phật thoại thì khi mới ra đời đi liền bảy bước trên bảy bông hoa sen rồi nói một câu bất hủ “Thượng Thiên hạ địa, duy ngã độc tôn” để khẳng định địa vị tôn quý của mình giữa thế giới tự nhiên và xã hội.
Nhà Mẫu: Gồm 3 tượng Thánh Mẫu (Tam toà Thánh Mẫu), các phật tử khi lễ phật đều rất coi trọng việc lễ mẫu là các nữ thần Mẹ với thiên chức sáng tạo. Trong điện mẫu của ngôi chùa này, hàng tượng trên cao là bộ tượng Tam toà Thánh Mẫu gồm đệ nhất Mẫu thiên trùm khăn đỏ ngôi giữa, đệ nhị Mẫu thoải trùm khăn trắng ở bên trái và đệ tam Mẫu thượng ngàn trùm khăn xanh ở bên phải. Ba Mẫu trên cũng được gọi là Tam Phủ: Thiên Phủ phụ trách vùng trời nước với những sáng tạo có tính vũ trụ, Thuỷ Phủ phụ trách vùng sông nước cho thuỷ sản, Nhạc Phủ phụ trách rừng núi.
Hàng dưới có tượng đệ tứ Mẫu Địa trùm khăn vuông đồng thời là Địa Phủ phụ trách đất đai đồng ruộng, giúp cho hoa màu tốt tươi. Hai hàng tượng này tạo thành Tứ Phủ. Phục thờ ở hai bên và thấp hơn là tượng các công chúa Quỳnh Hoa và Quế Hoa. Một vị Mẫu được lịch sử hoá là Mẫu Liễu Hạnh - Mẫu Liễu Hạnh thường được coi là hoá thân của Mẫu Địa. Ở hàng thấp hơn nữa là 2 tượng nhỏ là Cậu và Cô, có toà Sơn Trang, bộ tượng Tôn Ông và Chầu Bà, hệ thống Vua cha Đức Thánh Trần với hai bộ tướng Yết Kiêu và Giã Tượng.
Cách bài trí thờ trong chùa Phúc Long phải chăng là của thời Nguyễn vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
Hiện vật trong di tích.
Hiện nay trong di tích còn lưu giữ được những hiện vật sau:
Mâm bồng bằng gỗ
Khay mịch bằng gỗ (mới)
Bát hương đá cổ
Độc bình gốm (mới)
Đài rượu: 13 cái
Ông hương gỗ: 11 cái
Chuông đồng: 2 cái (mới)
Tượng bằng đất nung: 3 pho