Tên di sản : Chùa Bạch Hạc
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : 4738/QĐ-UBND
Giới thiệu
Mặc dù đã bị di chuyển nhiều lần từ nơi này qua nơi khác, trùng tu nhiều lần nhưng ngày nay chùa vẫn còn giữ được một số các pho nội tượng cổ, có kích thước khá lớn. Cách bài trí tượng Phật vẫn còn giữ được tính kế thừa ở những thời kì trước.
Tượng thờ ở chùa được bài trí theo 5 bậc từ cao xuống thấp. Hàng trên cùng là tượng Tam Thế; gồm ba pho tượng được đặt trên hàng ngang bệ cao nhất. Tam thế là ba vị Phật ở 3 thế giới, Phật quá khứ, Phật hiện tại, và Phật vị lai (tương lai). Cả ba pho tượng tạc ngồi trên bệ liên hoa gồm có 3 lớp cánh nhô ra tạo thành 3 lớp sóng, các lớp sau nhô ra xếp sít lại với nhau rất vững chắc. Cả ba pho tượng tạc với kích thước giống nhau: Cao 0,90m; rộng từ gối đến gối 0,60m; bệ sen cao 0,20m.
Bệ thứ 2 là Di Đà Tôn hay gọi là Tây phương tam thánh, bao gồm 3 pho: A Di Đà ngồi giữa, Quan âm; Đại thế chí ngồi hai bên.
Nhìn chung các pho tượng cổ còn lại ở chùa là những pho tượng quý, cách tạo tác dựa theo một nguyên tắc tạc tượng Phật giáo, dựa trên tính kế thừa truyền thống tạc tượng dân tộc Việt.
Bia ký vê chùa Bạch Hạc:
Bia có thác Bản ở các Thư viện Trung ương và sách vở ghi chép:
“Cung điền Bạch Hạc tự bi ký” dựng ở cạnh làng Tạnh Xá, xã Bố Vệ, cỡ 0,88 x 0,54m. 19 dòng mỗi dòng 3 – 29 chữ. Bia khắc năm Chính Hòa thứ 4 (1679) do Nguyễn Đăng Kiểm soạn. Nội dung ghi quan đền Đốc Nguyễn Vinh cùng vợ là Nguyễn Thị Diệu cúng cho chùa một mẫu ruộng.
“Trùng tu bi ký” dựng trên trái chùa Bạch Hạc Tạnh Xá, xã Động Vệ, cổ bia 1,40 x 0,55m; 19 dòng mỗi dòng 9 đến 35 chữ. Bia khắc năm Minh Mệnh thứ 13 (1832); nội dung ghi về ông Nguyễn Đăng Tiến và vợ là Nguyễn Thị Thư cung tiến tiền ruộng gửi giữ bố mẹ, tổ tiên, có ghi tên người quá cố và việc tu sửa chùa.
“Hậu kỵ bi ký” dựng năm Đinh Hợi ở chùa làng Tạnh Xá, xã Bố Vệ, cỡ 0,62 x 0,37m. 7 dòng 14 chữ. Nội dung ghi bà Nguyễn Thị Mậu cúng cho thôn 60 quan tiền và 6 sào ruộng gửi giỗ cho cha mẹ chồng.
Kết cấu kiến trúc theo kiểu chồng rường kẻ bẩy; bao gồm 4 hàng chân cột; hai cột cái và hai cột quân. Trên các đầu cốn, xà có chạm hoa văn hình mắt trâu, nét chạm thô tròn. Hệ thống rui, mè hoành tải được làm bằng gỗ, trên lợp hai lớp ngói, xung quanh chùa xây tường bao quanh nối rộng ra đỡ lấy hai bên hiện. Kích thước chùa từ thương lượng xuống mặt đất là 4,3m; từ đầu cột cái xuống chân tảng là 2,90m; từ chân tảng xuống mặt đất 0,40m. Chân tảng được thiết kế theo hình trụ xoắn đỡ lấy toàn bộ thân cột, vanh cột cái 0.85m; vanh cột quân 0,73m.
Tính theo chiều ngang: từ chân tường đến hiên cột quân là: 0,60m.
Từ cột quân đến cột cái là 1,10m.
Từ cột cái đến cột cái là 2,75m..
Chiều dọc: Gian thứ nhất từ cột đến cột: 3,1m.
Gian thứ hai từ cột đến cột: 2,75m.
Gian thứ 3 từ cột đến cột: 2,951m.
Gian thứ tư từ cột đến cột: 2,151m.
Gian thứ nhất được thiết kế thêm theo kiểu chồng diêm nâng đỡ tầng mái phía trước; nới rộng ra tạo thành một mái cong. Các lối ra vào chùa được làm bằng một hệ thống cửa bức bàn bằng gỗ kiên cố. Cửa chia làm 3 khung riêng biệt có kích thước cao từ mặt đất lên khung 0,50m. Chiều cao cửa chình là 1,85m; rộng 2,0m; chiều cao hai cửa phụ là 1,85m; rộng 0,55m.
Thống kê hiện vật:
“Bạch Hạc tự bi ký” khắc thời Thiệu Trị.
“Bạch Hạc tự bi ký” khắc thời Tự Đức.
Đá tảng
Cốn đá
Rùa đá
Bộ tượng Tam Thế
Tượng A Di Đà
Và một số đồ thờ khác.